Đông Quốc Cương cất tiếng thóa mạ:
- Tổ bà nó! Bọn quỷ La Sát thật là xảo quyệt! Mới bước đầu mình
đã mắc hợm. Chúng bảo mỗi bên đem đi hai trăm sáu chục tên vệ binh, mình quên
không hỏi kỵ binh hay bộ binh. Bây giờ chúng đem đoàn kỵ binh thành ra hơn
mình hai trăm sáu chục con ngựa.
Sách Ngạch Đồ nói:
- Vụ này nhắc nhở chúng ta phải rất thận trọng, mỗi khi giao dịch với bọn
quỷ La Sát chớ có sơ hở. Mình chỉ bất cẩn một chút là mắc lừa chúng.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì bọn quan binh La Sát đã gần tới
trước mặt.
Đông Quốc Cương nói:
- Chúng ta tuân chiếu lời phán bảo của Hoàng thượng thì việc gì cũng phải
theo lễ nghĩa Trung Hoa là thượng quốc. Vậy chúng ta xuống ngựa đi.
Vi Tiểu Bảo hô:
- Phải lắm! Hết thảy mọi người phải xuống ngựa!
Quan quân nghe lệnh nhất tề hạ mã, chắp tay đứng nghiêm chỉnh.
Khâm sai Phi Yến Đa La thấy vậy cũng hạ lệnh cho quan viên La Sát xuống
ngựa, khom lưng hành lễ.
Hai bên đều tiến gần vào nhau.
Phi Yến Đa La hô:
- Khâm sai nước Nga La Tư là Phi Yến Đa La vâng mệnh Sa hoàng kính chúc
Đại Thanh quốc Hoàng đế thánh thể an khang.
Vi Tiểu Bảo bắt chước hắn, đáp lại:
- Khâm sai Đại Thanh quốc là Vi Tiểu Bảo vâng mệnh Hoàng thượng kính chúc
Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang.
Gã lại thêm một câu:
- Và chúc Nhiếp Chính Nữ Vương Tô Phi á Công chúa xinh đẹp, bình yên.
Phi Yến Đa La mỉm cười nghĩ bụng:
- Đại Thanh Hoàng đế chúc Công chúa bên ta xinh đẹp, bình yên thì thật là
một câu ly kỳ cổ quái, song Công chúa nghe thấy tất lấy làm hoan hỷ.
Hai bên đưa ra những câu chúc tụng, có điều Vi Tiểu Bảo nghe tiếng La Sát
câu được câu chăng, mà gã nói càng văn phạm đảo diên, từ cú lệch lạc. May chỉ là
những lời khách sáo, chẳng có gì quan hệ.
Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát đứng nghiêm trang kính cẩn nghe lời, lễ
mạo cũng chu đáo, nhưng hai trăm sáu chục tên quân kỵ Kha Tát Khắc vẫn ngang
nhiên cưỡi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao xếp thành đội ngũ. Chúng ngồi
trên cao trông xuống, phảng phất có vẻ uy hiếp. Gã càng nhìn càng tức, liền hỏi:
- Đội vệ binh bên quý quốc rất vô lễ! Chúng tham kiến Trung Quốc đại
nhân các hạ mà sao không xuống ngựa?
Phi Yến Đa La đáp:
- Theo luật lệ của tệ quốc thì kỵ binh đang ở trong đội ngũ dù tham kiến Sa
Hoàng bệ hạ cũng không phải xuống ngựa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đây là đất Trung Quốc. Đã đến Trung Quốc là phải theo luật lệ Trung
Quốc.
Phi Yến Đa La lắc đầu đáp:
- Xin lỗi Trung Quốc đại nhân các hạ! Các hạ lầm rồi. Chỗ này là lãnh thổ
của Sa Hoàng nước Nga La Tư, chứ không phải đất Trung Quốc.
Vi Tiểu Bảo cãi:
- Đây hiển nhiên là đất Trung Quốc, các vị đến cưỡng chiếm mà thôi.
Phi Yến Đa La đáp:- Xin lỗi các hạ. Trung Quốc Khâm sai đại thần các hạ lầm rồi đó. Đây là lãnh
thổ Sa Hoàng nước Nga. Thành Ni Bố Sở do người Nga La Tư dựng lên.
Cuộc hội đàm lần này nguyên là để phân chia ranh giới hai nước, nên chỗ đất
này thuộc về Trung Quốc hay thuộc về Nga Quốc phân định cho rõ là một điều
trọng yếu. Khâm sai đại thần hai nước vừa gặp mặt, chưa kịp vào trướng mở cuộc
đàm phán đã xảy chuyện tranh chấp.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Người La Sát các vị đắp thành lên đất Trung Quốc rồi tự nhận là lãnh thổ
của mình mà được ư? Trong thiên hạ sao lại có chuyện kỳ thế?
Phi Yến Đa La cãi:
- Chỗ này nhất định là lãnh thổ nước Nga. Người Nga La Tư xây thành ở đây,
người Trung Quốc không xây thành đắp lũy đủ chứng minh là đất nước Nga. Bây
giờ Trung Quốc đại thần các hạ bảo là đất Trung Quốc thì có gì làm chứng cứ
không?
Thực ra một giải Ni Bố Sở trước nay chẳng có gì ước thúc. Nó là chỗ biên
thùy hai nước Trung, Nga nhưng chưa vạch rõ cương giới. Nó thuộc về Trung Quốc
hay thuộc về nước Nga, chẳng ai có bằng chứng đưa ra.
Vi Tiểu Bảo nghe đối phương hỏi đến chứng cứ không khỏi tắc họng. Gã
muốn cưỡng biện, khốn nỗi gã không thông suốt từ ngữ La Sát. Ngay những câu
đối đáp tầm thường đã cảm thấy khó khăn thì làm sao đủ tiếng để trình bày biện
bác được?
Gã nói ẩu:
- Đây là đất Trung Quốc, chẳng thiếu gì chứng cứ.
Rồi gã dùng tiếng Dương Châu thóa mạ:
- Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát
các ngươi.
Gã thốt câu này rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao
thao bất tuyệt, thóa mạ cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội,ngoại bà, di má, cô mẫu nhà Phi Yến Đa La. Gã chửi tưới hạt sen, chửi vung xích
chó. Bao nhiêu đàn bà nhà họ Phi nước La Sát gã chửi tuốt chẳng tha một ai.
Các quan viên cả hai bên Trung, Nga thấy Khâm sai đại thần Trung Quốc nổi
lôi đình đều băn khoăn kinh hãi. Có điều gã mồm năm miệng mười đưa ra từng
tràng như pháo nổ liên thanh, đừng nói Phi Yến Đa La chẳng hiểu gì mà cả quan
viên Trung Quốc cùng thông dịch viên hai bên cũng lờ mờ.
Nên biết những câu chửi rủa của Vi Tiểu Bảo này toàn là lời thô tục đê hèn
trong đám dân quê ở Dương Châu. Ngay những vị thân sĩ, thục nữ người Dương
Châu cũng chưa chắc đã hiểu được mấy phần. Bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc
Cương, hoặc là người Bát Kỳ, hoặc là võ quan ở phương Bắc từ lâu thì còn lý hội
làm sao được?
Vi Tiểu Bảo thóa mạ hồi lâu đã tiết hận, trong lòng khoan khoái. Gã không
nhịn được lại nổi lên tràng cười khanh khách.
Phi Yến Đa La ban đầu tuy không hiểu ngữ ngôn của gã, nhưng coi vẻ mặt
cùng nghe giọng nói cũng đoán là gã đang nổi giận. Sau lại thấy gã đột nhiên cười
rộ không khỏi ngơ ngác, cất tiếng hỏi:
- Xin hỏi quý sứ đưa ra trường thiên đại luận đó để chỉ giáo điều gì? Ngôn
từ của quý sứ sâu xa và huyền diệu, mà tệ nhân lại học thức thô sơ, kiến văn hủ
lậu, khó bề thông tình đạt lý. Xin quý sứ nói chậm chạp từng câu một, để tệ nhân
lãnh giáo.
Vi Tiểu Bảo đáp:
- Bản sứ vừa nói quý sứ không hiểu đạo lý gì hết. Bản sứ muốn quý tổ mẫu
đến đây làm người bạn lòng và làm bà vợ.
Phi Yến Đa La mỉm cười đáp:
- Tổ mẫu của tệ nhân là người đẹp nổi danh ở thành Mạc Tư Khoa. Lão nhân
gia là con gái của Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ Bá tước. Té ra Trung Quốc đại nhân các
hạ cũng biết tiếng tệ tổ mẫu. Tệ nhân thực lấy làm vinh hạnh vô cùng! Đáng tiếc
tệ tổ mẫu đã chết trước đây ba mươi tám năm.
Vi Tiểu Bảo nói:- Thế thì bản sứ muốn giao du thân mật với lệnh mẫu để lấy bà làm vợ.
Phi Yến Đa La nở mày nở mặt, càng lộ vẻ hoan hỷ đáp:
- Má má của tệ nhân là con nhà danh môn vọng tộc ở thành Cơ Phụ. Nước da
người vừa trắng vừa non. Người biết làm thơ chữ Pháp. ở thành Mạc Tư Khoa chẳng
thiếu gì bậc vương công, tướng quân rất sùng bái người. ở tệ quốc còn có một vị
đại thi nhân đã làm mấy chục bài thơ tán dương sắc đẹp của tệ má má. Hiện nay
tuy người đã ba mươi sáu tuổi nhưng tướng mạo còn non trẻ chỉ bằng một thiếu
phụ dưới ba mươi. Trung Quốc đại nhân các hạ mai đây có dịp qua Mạc Tư Khoa,
tệ nhân nhất định giới thiệu đại nhân các hạ với má má. Việc kết hôn thì đại nhân
rằng không được, còn làm bạn tâm tình thì có thể.
Nguyên theo phong tục Tây dương thì ai có mẫu thân hoặc thê tử xinh đẹp
được người tán tụng, chẳng những họ không lấy thế làm hỗn xược, trái lại họ cho
là một điều rất vinh hạnh và khoan khoái hơn cả ca tụng chính họ.
Vi Tiểu Bảo không hiểu phong tục Tây dương, lại cho là Phi Yến Đa La sợ
mình, có ý muốn bái mình làm cha hờ, mới chịu phụng hiến thân mẫu.
Gã sướng quá, bao nhiêu lửa giận tiêu tan hết, liền cười đáp:
- Hay lắm! Hay lắm! Sau này nếu quả bản sứ có dịp qua Mạc Tư Khoa nhất
định sẽ vào làm thượng khách của quý phủ.
Gã dắt tay Phi Yến Đa La đi vào doanh trướng. Bọn tùy tùng hai bên liền
theo sau tiến vào.
Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi ở đằng Đông. Bọn Phi Yến Đa La ngồi ở mé Tây.
Phi Yến Đa La lên tiếng:
- Nhiếp Chính Nữ Vương Công chúa điện hạ bên tệ quốc đã dặn bảo cuộc
hòa đàm chuyến này để hoạch định cương giới. Tệ quốc hết sức thành ý, mong hai
bên giữ mực công bằng, đừng ai lấn át đối phương. Vì vậy tệ quốc đề nghị lấy
sông Hắc Long Giang làm giới hạn cho hai nước. Mặt Nam sông này là Trung Quốc.
Mặt Bắc thuộc về Nga La Tư. Sau khi cương giới đã hoạch định, quân Nga La Tư
không được qua sông tràn xuống phía Nam. Quân Trung Quốc cũng không được
qua sông tiến lên miền Bắc.Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Thành Nhã Tát Khắc ở Giang Nam hay Giang Bắc?
Phi Yến Đa La đáp:
- Nhã Tát Khắc ở Giang Bắc. Thành này do người La Sát xây đắp. Cái đó
chứng tỏ mặt Bắc sông Hắc Long Giang đều là lãnh thổ của nước Nga.
Vi Tiểu Bảo nghe nói lại nổi cơn tức giận hỏi:
- Trong thành Nhã Tát Khắc có một trái núi nhỏ. Các hạ có biết tên trái núi
này là gì không?
Phi Yến Đa La quay lại hỏi tùy viên rồi đáp:
- Trái núi đó kêu bằng Cao Trợ Lược Sơn.
Vi Tiểu Bảo hiểu được tiếng La Sát, Cao Trợ Lược tức là con hươu, liền nói:
- Người Trung Quốc kêu bằng Lộc Đỉnh Sơn.
Rồi gã hỏi:
- Quý sứ có biết bản sứ được phong tước vị gì không?
Phi Yến Đa La đáp:
- Các hạ là Lộc Đỉnh Công. Nếu nói bằng tiếng La Sát tức là Cao Trợ Lược
Sơn Công tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Thế là các hạ còn có lòng muốn lấn át bản sứ. Các hạ đã biết rõ bản sứ là
Lộc Đỉnh Công sao còn cưỡng chiếm Lộc Đỉnh Sơn của bản sứ? Phải chăng các
hạ bảo bản sứ không phải là Công tước?
Phi Yến Đa La đáp:
- Không không! Tệ nhân quyết chẳng có ý đó.
Vi Tiểu Bảo lại hỏi:
- Tước hiệu của các hạ là gì?
Phi Yến Đa La đáp:- Tệ nhân là Mạc Nặc Sa Phạt Hầu tước.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Hay lắm! Vậy thì Lạc Nặc Sa Phạt thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La giật mình kinh hãi rồi mỉm cười nói:
- ấp phong của tệ nhân Lạc Nặc Sa Phạt còn ở phía Tây Mạc Tư Khoa, cách
xa Trung Quốc vạn dặm, sao lại thuộc về lãnh thổ Trung Quốc được?
Vi Tiểu Bảo hỏi:
- Quý sứ bảo ấp phong của mình kêu bằng Lão Miêu Lạp Thi Pháp...
Phi Yến Đa La sửa lại:
- Lạc Nặc Sa Phạt.
Vi Tiểu Bảo không lý gì đến hắn, tiếp tục câu hỏi:
- Từ thành Bắc Kinh bên bản sứ tới Lão Miêu Lạp Thi Pháp cộng bao nhiêu
dặm đường?
Phi Yến Đa La đáp:
- Từ Lạc Nặc Sa Phạt đến Mạc Tư Khoa đã hơn trăm dặm, phải đi mất bốn
ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh phải đi ba tháng nữa.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Nếu vậy từ Bắc Kinh đến Lão Miêu Lạp Thi Pháp phải đi mất ba tháng lẻ
năm ngày. Lộ trình xa quá nhỉ?
Phi Yến Đa La đáp:
- Xa lắm! Xa lắm!
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đường đất đã xa như vậy thì Lão Miêu Lạp Thi Pháp dĩ nhiên không phải là
lãnh thổ Trung Quốc.
Phi Yến Đa La đáp:
- Công gia nói đúng lắm!Vi Tiểu Bảo nâng chung rượu lên nói:
- Mời quý sứ xơi rượu.
Người La Sát quý rượu như tính mạng. Chung rượu đặt ở trước mặt Phi Yến
Đa La đã lâu, mùi thơm tho xông lên mũi hắn từng hồi, nhưng chủ nhân chưa nâng
chung, hắn không dám thiện tiện uống trước.
Bây giờ Phi Yến Đa La thấy Vi Tiểu Bảo nâng chung, hắn mừng quá cầm
chung rượu uống một hơi cạn sạch.
Bọn tùy viên bên Thanh lại rót rượu vào chung cho hắn rồi lấy đồ nhắm
trong hộp ra và toàn là những món do đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng.
Thời bấy giờ nước La Sát mới được khai hóa, nên cách ăn mặc hãy còn thô
sơ. Về sau Bỉ Đắc đại đế lớn lên, đoạt lại quyền hành ở tay tỷ tỷ là Tô Phi á
Công chúa rồi giam nàng vào ni am. Bỉ Đắc đại đế từ đó mới thâu nhập phần lớn
văn hóa Tây