Vi Tiểu Bảo nghe Sách Ngạch Đồ nói vậy cả mừng nghĩ bụng:
- Tưởng gì chứ viết chữ "Tiểu" thì lão gia coi như trò đùa.
Gã liền cầm bút khuyên bên trái một vòng tròn, lại khuyên bên phải một
vòng tròn. Sau cùng mới vạch một đường thẳng vào giữa.
Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói:
- Được rồi! Vi đại nhân viết hay quá!
Vi Tiểu Bảo ngoẹo đầu ngắm nghía chữ "Tiểu" một lúc rồi ngửa mặt lên trời
cười rộ.
Sách Ngạch Đồ lấy làm kỳ hỏi:
- Vi đại soái cười gì vậy?
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
- Sách đại nhân coi chữ này có giống một con chim sẻ và hai quả trứng
không?
Các đại thần bên Thanh không nhịn được nổi lên tràng cười khanh khách. Cả
bọn tùy tùng cùng thân binh cũng bưng miệng phì cười.
Phi Yến Đà La chẳng hiểu bọn họ cười gì, chỉ dương mắt lên mà nhìn.
Vi Tiểu Bảo kiềm tự vào cả bốn bản điều ước. Trên bản bằng La Sát văn gã
vạch chữ lớn gấp bội.
Tiếp theo bọn Phi Yến Đà La, Sách Ngạch Đồ và các phó sứ bên Nga đều
kiềm tự.
Bản điều ước thứ nhất giữa hai nước Trung- Nga thế là hoàn thành. Nó cũng là
bản điều ước đầu tiên Trung Quốc ký kết với nước ngoài.
Vụ này do Vua Khang Hy trù liệu kế hoạch rất chu đáo lại xuất toàn lực để
thực hành, cùng phái những nhân viên rất đắc lực dựng lên điều ước phân chia
cương giới và gọi tắt là điều ước Ni Bố Sở. Trung Quốc không bị thua thiệt chút
nào.
Điều ước Ni Bố Sở quy định dùng ngọn Hưng An ở mặt bắc làm bờ cõi. Thế
là toàn bộ tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải của Liên Xô thuộc vào lãnh thổ Trung
Quốc. Phương Đông và phương Đông Nam lãnh thổ Trung Quốc ra đến tận biển.
Trước cuộc hòa đàm khu vực này không thuộc vào nước nào. Chỗ Trung Quốc
chiếm lấy đó cũng không phải đất La Sát, nhưng nước La Sát đã đắp thành, thực
dân.
Sau khi kiềm đính hiệp ước bọn thực dân bắt buộc phải rút về. Đó là thắng
lợi về quân sự cũng như về ngoại giao của Trung Quốc.
Theo điều ước thì một diện tích đất gần tám chục dặm vuông Anh được sát
nhập vào Trung Quốc, tức là một phần đất lớn gấp đôi mấy tỉnh miền Đông Bắc
hiện nay.
Điều ước này lập xong còn khiến cho biên giới phía Đông Bắc Trung Quốc
được an ninh hơn một trăm năm chục năm rồi. Cuộc đông xâm của người La Sát bị
cản trở, dã tâm xâm lược cũng giảm bớt.
Sau các triều đại Khang Hy, Ung Chính, Càn Long nhà Mãn Thanh ký điều ước
với nước ngoài đều bị thất quyền mất đất. Hùng phong cùng uy quyền quốc gia
về sau chẳng còn thời kỳ nào được hưng thịnh bằng hồi vua Khang Hy trị vì và Vi
Tiểu Bảo tham dự quốc chính.
(Lời tác giả:
Chữ kiềm của Vi Tiểu Bảo trên điều ước rất cổ quái không nhận ra được.
Những sử gia đời sau của hai nước Trung- Nga chỉ biết Sách Ngạch Đồ và Phi Yến
Đa La kiềm thư.
Nhà khảo cổ Quách Mạc Nhược hiểu biết Giáp cốt văn tự cũng không hiểu
chữ "Tiểu" kiềm trên điều ước Ni Bố Sở, khiến đại danh của Vi Tiểu Bảo phải mai
một. Những sử sách đời sau đều nói những nhân vật kiềm tự điều ước Ni Bố Sở là
Sách Ngạch Đồ và Phi Yến Đà La.
Từ cổ chí kim, những người biết đến Vi Tiểu Bảo chỉ có độc giả "Lộc Đỉnh
Ký" mà thôi. Pho sách này thuật lại việc kiểm đính và nội dung điều ước Ni Bố Sở,trừ phần liên quan đến Vi Tiểu Bảo để bổ sung chỗ thiếu sót, còn ngoài ra đều
căn cứ vào lịch sử để ghi chép.
Theo tập quán thời bấy giờ, hai bên kiềm ký điều ước rồi đồng thời nổ súng
tuyên thệ với trời tuân thủ nghiêm minh.
Bên Thanh có hơn hai trăm cỗ đại pháo đặt ở ngoại thành Ni Bố Sở. Cả bốn
mặt Đông Nam Tây Bắc đồng thời phát xạ. Súng nổ chấn động một vùng.
Bên Nga chỉ có hơn mười cỗ, tiếng súng thưa thớt. Thế cường nhược chênh
lệch nhau không biết đến đâu mà kẻ.)
Phi Yến Đà La tự nhủ:
- May quá! Nếu hòa nghị bất thành, xẩy cuộc đánh nhau thì thành Ni Bố Sở bị
bắn đến tan tành.
Sứ thần hai nước đều đưa tặng lễ vật cho nhau.
Phi Yến Đà La tặng bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, thiên lý kính, ngân khí, áo da
điêu, đao kiếm...
Vi Tiểu Bảo tặng đối phương lừa ngựa, yên cương, chén vàng, quần áo, lụa là.
Ngoài ra, mỗi người còn được một cái đai lưng dát vàng để bồi thường lại đai quần
bị quân Thanh cắt đứt.
Tối hôm ấy tại hội sở mở đại yến khánh hạ hòa ước thành công.
Phi Yến Đà La vẫn băn khoăn lo lắng, không hiểu những toán quân Thanh kéo
đi công tập Mạc Tư Khoa đã triệu hồi chưa. Hắn không ngớt đưa ra ngôn ngữ thăm
dò, nhưng Vi Tiểu Bảo vẫn lờ đi như không hiểu.
Sau hai bữa, Phi Yến Đà La được tin báo có đại đội quân Thanh từ mé Tây
kéo đến, hắn lên mặt thành dùng Thiên lý kính nhìn ra xa, quả thấy từng đội Thanh
binh từ mặt Tây đi tới, qua sông Ni Bố Sở đóng lại ở phía Đông.
Phi Yến Đà La cả mừng. Hắn yên trí đây là những toán Thanh binh định đi Tây
xâm đã được triệu hồi.
Hắn có biết đâu đại đội quân Thanh này nguyên trước hạ trại đóng ở ngoài
hai trăm dặm về phía tây thành Ni Bố Sở. Họ đã được lệnh từ trước, nếu nghe
tiếng súng lớn nổ liền nhổ trại từ từ kéo về.Lại qua mấy bữa, thợ đá dựng bia trên biên giới. Văn tự trong bia điêu khắc
rất hoàn chỉnh gồm năm thứ chữ là: Mãn văn, Hán văn, Mông văn, La Tinh văn và La
Sát văn.
Những tấm bia cương giới chia ra dựng ở đông ngạn sông Cách Nhĩ Tất Tề,
nam ngạn sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp, cùng các nơi Đông Bắc dãy núi Uy Y Khắc A
Lâm Đại Sơn.
Trong văn bia viết rõ hai nước dùng sông Cách Nhĩ Tất Tề làm biên giới.
Thượng lưu sông này có khu đất cỏ cây không mọc được tên gọi là Đại Hưng
An ra đến biển. Bao nhiêu sông ngòi ở phía Nam núi này chảy vào sông Hắc Long
Giang đều thuộc về Trung Quốc. Những sông ngòi phía Bắc dãy núi đều thuộc
nước Nga La Tư.
Trong bia còn ghi rõ:
- Sông Ngạch Nhĩ Cổ Lạp chảy vào Hắc Long Giang dùng làm địa giới. Nam
ngạn sông này thuộc về Trung Quốc, Bắc ngạn thuộc về Nga La Tư. ở cửa sông Mi
Nặc Nhĩ Khánh thuộc Nam ngạn có nhà cửa của người Nga La Tư phải rời qua Bắc
ngạn.
Văn bia còn viết rõ:
- Nhân dân Nga La Tư cùng mọi sự vật ở Nhã Tát Khắc phải triệt thoái về Sát
Hãn Hàn.
Văn bia lại nói rõ:
- Những nhà săn bắn cấm hẳn không được vượt qua biên giới. Nếu có người
tụ tập đem theo khí giới săn bắn giết người cướp của mà bắt được là chính pháp
liền, không thể vì những chuyện nhỏ nhặt làm hư đại sự. Hai nước Trung- Nga hòa
hiếu với nhau, đừng để xảy cuộc tranh chấp.
Khâm sai hai nước lại phái bộ thuộc khám xét địa hình không còn chỗ nào lầm
lẫn, mới dựng bia lên.
Những chỗ dựng bia này đáng lý để phân cương giới giữa hai nước muôn năm
không thay đổi, nhưng hơn trăm năm sau, nước Nga thừa cơ Trung Quốc suy nhược,tầm gửi lấn cành, không kể gì đến chuyện phân cương giới ngày trước, thôn tính
một vùng đất rộng rất phì nhiêu của Trung Quốc.
Những người đọc sử về sau phải chép miệng thở dài mà than rằng:
- ¦ớc gì được vua Khang Hy và Vi Tiểu Bảo ở dưới âm cung sống lại để khôi
phục cố thổ của nhà nước bị bọn người La Sát lang sói chiếm đoạt.
Dựng bia xong rồi, khâm sai hai nước thi lễ từ biệt, chia đường trở về kinh
thành phục mạng.
Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tử Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào kiểm nhận lễ vật để
đưa về trình Tô Phi á Công chúa. Trong món lễ này có cả chăn gấm gối thêu.
Nơi đây là đất hoang vu, không thể mua được những vật đó, đều lấy của
Song Nhi.
Vi Tiểu Bảo cười nói:
- Nếu Công chúa thực sự tưởng nhớ ta thì cứ ôm chăn gối này mà ngủ.
Hoa Bá Tử Cơ đáp:
Tình ý của Công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ khác nào thiên trường
địa cửu mà chăn gối chẳng được bao lâu sẽ rách nát. Xin đại nhân phái mấy tên kỹ
sư qua Mạc Tư Khoa xây mấy tòa thạch kiều thì vĩnh viễn không bao giờ hư nát
được.
Vi Tiểu Bảo cười đáp:
- Ta đã nghĩ đến điểm này rồi, hai người bất tất phải lắm miệng.
Gã sai thân binh khiêng một cái rương vào. Cái rương này dài bảy thước,
rộng bốn thước giống hệt một cỗ quan tài. Tám tên thân binh dùng đòn khiêng
tới, tỏ ra rất trầm trọng.Ngoài rương đóng đai sắt rất thận trọng lại niêm phong
kiềm dấu.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Món lễ vật này rất quan trọng chứ không phải tầm thường. Các ngươi bảo
vệ cho cẩn thận đừng để tổn hại. Công chúa trông thấy rồi nhất định vô cùnghoan hỷ, vì đây là món nhân tình vĩnh viễn như thiên trường địa cửu. Nó cũng bền
vững chẳng kém gì những cầu đá ở Trung Quốc.
Hai tên đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, lãnh rương gỗ ra đi.
Cái rương gỗ này nặng tới ngàn cân mà đưa từ Ni Bố Sở về đến Mạc Tư Khoa
đường xa muôn dặm thật là vất vả.
Tô Phi á nhận được rương mở coi thì ra một pho thạch tượng khỏa thân của
Vi Tiểu Bảo. Pho tượng lộ nụ cười rất linh động như người sống.
Nguyên Vi Tiểu Bảo lúc kêu thợ đá khắc bia, đồng thời sai họ suốt đêm ngày
tạc thành pho tượng này. Gã lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết câu ⬢Ta vĩnh viễn yêu
nàng⬢ bằng tiếng La Sát, để khắc vào trước ngực tượng đá.
Tô Phi á Công chúa vừa ngó thấy thật là dở cười dở khóc. Nàng nghĩ tới tiểu
hài ở Trung Quốc cực kỳ cổ quái tinh ma, bọn nam tử La Sát không thể bì kịp. Bất
giác nàng nẩy mối tình ý triền miên, tâm thần bay xa muôn dặm.
Pho tượng đá này cất ở điện Cẩm Linh. Sau Bỉ Đắc đại đế phát động cuộc
chính biến, đuổi Tô Phi á Công chúa ra khỏi cung vị, đồng thời đập tan nát pho
tượng đá. Chỉ còn bộ phận tàn hủy được binh sĩ đem ra bỏ ở ngoài thành.
Bọn phụ nữ dốt nát ở nước La Sát thường hay đến lạy lục để cầu sinh con
đẻ cái và người ta đồn đại là rất linh nghiệm.
Nhắc lại Vi Tiểu Bảo mở cờ gióng trống khải hoàn trở về Bắc Kinh. Tình hình
kiểm đính hòa ước chia biên giới đã có bản tâu gửi về từ trước dâng lên vua
Khang Hy.
Đại quân chưa về tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã chờ
sẵn ở cửa thành để nghênh tiếp.
Vi Tiểu Bảo dẫn bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân, Tát Bố
Tố, Lang Thản, Lâm Hưng Châu vào triều kiến vua Khang Hy.
Nhà vua dùng lời lẽ ôn nhu khen thưởng, lại hạ chiếu thăng chức cho Vi Tiểu
Bảo làm Nhất đẳng Lộc Đỉnh Công.
Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cùng tướng sĩ quan quân đều được
thăng thưởng.Vi Tiểu Bảo nhơn nhơn đắc ý ra khỏi Hoàng cung. Các quan tiền hô hậu ủng
đưa gã về phủ.
Bỗng nghe bên đường phố lớn có tiếng người hô:
- Vi Tiểu Bảo! Ngươi là một tên cẩu tặc vong ân bội nghĩa!
Đoàn người nghe tiếng kêu réo thóa mạ đều giật mình kinh hãi.
Vi Tiểu Bảo nghe thanh âm quen thuộc ngoảnh đầu nhìn ra thấy một gã đại
hán từ trong thềm nhà chạy xuống đường lớn trỏ tay vào mặt gã, ngoác miệng chửi
bới:
- Vi Tiểu Bảo! Mi là một tên tiểu tặc đáng tội ngàn đao phân thây. Đường
đường là người Hán, mi lại đi đầu hàng nhà Mãn Thanh, làm tẩu cẩu cho quân Thát
Đát. Mi làm cho sư phụ của mi phải uổng mạng, lại sát hại bao nhiêu hảo huynh đệ.
Nay mi được Hoàng đế Thát Đát phong đến công hầu, vinh hoa phú quý, mi càng
nhơn nhơn đắc ý! Tổ bà nó! Lão gia phải dùng gươm trắng đao hồng đâm con mẹ
nó tên tiểu tặc mấy chục nhát, thử xem mi còn làm Ô Quy Công, Giáp Ngư Công
được nữa không?
Đại hán này mình trần trùng trục, ngực đầy lông lá đen sì, mày rậm mắt to,
thái độ rất hung dữ. Hắn chính là Mao Thập Bát, ngày trước đã dẫn dắt Vi Tiểu
Bảo đến Bắc Kinh.
Vi Tiểu Bảo còn đang ngơ ngác thì mấy chục tên thân binh đã bao vây đại
hán.
Mao Thập Bát rút thanh đoản đao ở trong mình ra toan chống cự.
Mấy vị Đô thống, Đề đốc cùng võ tướng nhất tề động thủ đoạt lấy đoản
đao ở trong tay Mao Thập Bát rồi vật hắn ra trói lại.
Mao Thập