Mười lăm tháng Giêng, vốn Đại Tống vẫn là thời gian nghỉ ngơi, các quan viên cũng phải thở chứ.
Năm nay Đại Tống quả là mắc nạn mà chiến hỏa nổi lên khắp nơi.
Phía Nam Đại Việt Đế quốc cồng chiếm Lưỡng Quảng cắt thành hai vùng tự tự trị Quảng Đông Mân quốc và Quảng Tây Mân quốc do Lưu Kỷ Vương cùng Thân Cảnh Phúc Vương chia nhau mà trị.
Đại Tống bó tay chưa thể đụng vào vì còn một cái Đại Mân quốc do Vương Thị tạo phản đang còn đó.
Đại Tống lúc này đối với Lưu Kỷ chỉ có thể lui lại lấy phòng thủ không cho quân Lưu Kỷ vượt biên làm chủ.
Tinh lực của họ không thể đặt quá nhiều các mặt trận.
Quảng Đông Mân quốc thì còn cách cả Đại Mân quốc của Vương thị nên chọc cũng không được.
Thái độ của Đại Tống với Lưỡng Quảng lúc này lấy mua chuộc cùng chiêu an là chủ.
Tính cả trước mắt và lâu dài một chút thì không nên đụng hai thằng này.
Vì nếu Tam Mân mà hợp sức công Tống thì rất nguy hiểm.
Lúc này việc lớn nhất của Đại Tống là phân hóa, chia rẽ Tam Mân bằng các chính sách ngoại giao và quyền lực mềm.
Còn về xử nhị Mân Lưỡng Quảng thì đó là một kế hoạch dài hơi liên quan đến cả Đế Quốc Đại Việt.
Tận lúc này thì Đại Tống cực kỳ sợ hãi Đại Việt và thực tế họ cũng muốn duy trì vùng đệm cùng Đại Việt.
Mua chuộc phân hóa Đại Việt và Lưỡng Quảng Mân quốc có khi lại là sách lược hay ho.
Đại Tống thực sự không muốn đối diện cùng lúc phía bắc Đế Quốc Đại Liêu và phía Nam Đế Quốc Đại Việt.
Thẳng thừng mà nói Đại Tống sau hai năm chiến tranh vừa qua cực kỳ sợ hãi khả năng tác chiến của Đại Việt Đế Quốc.
Nhìn cách mà Đại Việt dùng đại pháo nổ nát cả vùng biển Quỳnh Châu đủ hiểu.
Cả tòa đảo lớn Nam Hải không tử thủ nổi một ngày mà bị công phá.
Lúc này Quý Châu ( Đảo Hải Nam) đã bị Đế Quốc Đại Việt nhét thẳng bản đồ.
Người Đại Tống thực sự không quan tâm lắm đến việc mất mát Đảo Quý Châu, nói thật với Đại Tống thì Quý Châu hay Lưỡng Quảng chỉ là cái gân gà không đem lại bao nhiêu lợi ích thực sự về mặt kinh tế.
Chẳng qua nếu để mất những vùng đất này sẽ bị dân chúng sỉ vả cũng như địa vị chính trị của quốc gia “Thiên triều” bị hao tổn mà thôi.
Nhưng kể cả khách quan và chủ quan thì Đại Tống vô lực thu hồi lại Quý Châu và Lưỡng Quảng.
Lưỡng Quảng còn có thể dùng bộ binh, kỵ binh thu hồi.
Nhưng Quý Châu thì Đại Tống chưa nghĩ ra cách nào có thể thu hồi được.
Hải chiến, thủy chiến người Tống còn chưa so được với Ngô Khảo Ký thì sao dám chọc Đế Quốc Đại Việt?
Nói không chừng đánh Quý Châu thì vì Đông Hải Vương có khi lại chọc một đao thì Đại Tống chắc thăng thiên quá.
Nói vì sao một quốc gia mấy chục triệu dân lại e ngại Đế Quốc mới nổi là Đại Việt có vài triệu dân? Đơn giản vì Đại Tống đã tiếp xúc với thuốc nổ cùng hỏa pháo.
Chiến tranh cùng Vương Thị thời gian qua thì Đại Tống cũng thu được không ít hỏa pháo đời đầu made in Vương thị từ đó sao chép thành công.
Đại Việt là vua sao chép thì Đại Tống cũng là chúa sao chép.
Nói thẳng một câu nếu Ngô Khảo Ký không buff cho triều đình Đại Việt thì thợ thủ công Đại Việt vẫn kém hơn một bậc so với Đại Tống.
Từ khi thu được pháo mẫu thì Đại Tống bắt đầu sao chép của Vương thị mà cho ra hằng hà sa số các kiểu pháo lớn bé.
Do hiểu được đại pháo cho nên Đại Tống cực kỳ kiêng dè lực lượng này, nhất là hay tin đế quốc Đại Việt đã đi trước mà đúc được hỏa pháo bằng cương thiết bắn nhiều lần không bị hủy hoại thì Đại Tống phát sợ.
Chính vì phát sợ cho nên càng không dám gây.
Nhưng Đại Tống cũng có tiến triển của họ trong việc đúc pháo cùng “rèn” pháo.
Nói cho cùng thì công nghệ của Đại Tống vẫn là dẫn đầu khu vực nếu không có mấy thằng xuyên không như Ngô Khảo Ký – Tống Kiệt – Lý Từ Huy.
— QUẢNG CÁO —
Vẫn là mẫu pháo nòng trơn nhẵn, khoang chứa thuốc súng bằng đường kính nòng, nạp dạn đầu nòng.
Nhưng có thể nói chất lượng pháo do Đại Tống chế tạo tốt hơn nhiều của Vương thị.
Số lượng thì ngày một tăng nhiều, đủ để cho quân đội Đại Tống dùng và tiêu hao khi hỏng.
Làm một bảng so sánh về chất lượng cùng số lượng pháo của các thế lực thì có thể mường tượng như sau.
Về số lượng thì Vương Thị xếp đầu vì thằng này có thời gian dài mưu đồ trước đó và chế pháo dự trữ sẵn.
Nhưng Vương Thị rõ ràng ưu thế này đang mất đi theo thời gian vì năng lực chế tạo của họ thuộc hàng thấp nhất.
Số lượng pháo xếp thứ hai là Đại Tống , thằng này có ưu điểm là đông người, đông công tượng cho nên năng lực sản xuất vẫn rất bá.
Số lượng pháo xếp thứt ba đó chính là Đại Việt đế quốc.
Đại Việt dĩ nhiên có số lượng pháo nhiều vì họ có công nghệ thổi thép của Ngô Khảo Ký buff cùng với nguyên liệu chẳng thiếu, số lượng công tượng đông.
Cả Thăng Long thành trở thành công xưởng khổng lồ.
Thế lực có số lượng pháo kế tiếp là hệ thống Bố Chính bao gồm Tân Bình Lộ nhiều nhất, kế đến là Ngô Tước Ký ở Liêu Đông, Medang tiếp theo rồi LaVo và Khmer, tất nhiên đám hiện tại chưa có khả năng sản xuất pháo, nhưng cũng chẳng kể được đám này có dùng gang hay đồng đúc theo mẫu Bố Chính hay không.
Chất lượng thì dĩ nhiên cao nhất là mẻ Phật Lãng Cơ Pháo của Lý Từ Huy sản xuất, thứ nhì là Phật Lãng Cơ Pháo của Ngô Khảo Ký ở Liêu Đông, thứ ba tư năm là của đám Medang tiếp theo rồi LaVo và Khmer.
Sau đó là Đại Việt, Đại Tống rồi mới đến đám Vương Thị đi trước nhưng về sau.
Phải kể đến người Tống khá sáng tạo, bọn này đã cho ra mẫu pháo bằng thép made in China rồi.
Do gang có quá nhiều bất lợi để có thể trở thành nguyên liệu đúc pháo, Đồng thì đắt mà cũng nhanh hỏng cho nên người Đại Tống đã phát triển loại hỏa pháo riêng của bản thân đó chính là sử dụng các thanh sắt rèn nối lại với nhau và được giữ lại bằng các vòng sắt.
Tuy rằng cấu trúc này khó chế tạo cùng độ bền không thể nào bằng pháo thép đúc mảng nguyên khối của Đại Việt.
Nhưng nó đã ăn đứt pháo gang, đồng của Vương thị.
Người Đại Tống đông nên rất đáng sợ, sức chế tạo của họ không thể khinh thường được.
Ưu thế hỏa pháo của Vương Thị trong vài tháng đã gần như bị san bằng.
Càng đánh thì người Đại Tống càng vận dụng tốt hỏa pháo.
Tình Hình lúc này Đại Mân Quốc của Vương Thi đã mất không chế một đoạn lớn sông Trường Giang.
Đại Mân Quốc đã bị đánh tơi bời ở Kiến Nghiệp, Hàng Châu- Tô Châu và phải lui về cố thủ Thai Châu Chiết Giang.
Thủy binh của Vương Thị thì đã ngược dòng chạy về Trường Sa trấn giữ nơi này.
Kể từ đó Đại Tống đã gần như ổn định một chút thế cuộc ở phương Nam.
Một nửa phía bắc trù phú nhất của Chiết Giang đã được thu hồi.
Đại Tống thở phào một hơi, họ có lợi thế về mặt quân sự nhưng chưa thể nhất cử đẩy mạnh tiêu tiệt được Vương thị vì từ Thai Châu đi vào Phúc Châu lộ Phúc Kiến chính là đồi núi chằng chịt.
Nơi này dễ thủ khó công.
Đại quân Tống cũng mệt mỏi quá rồi.
Quốc khố Tống cũng đang chờ hồi phục, cuộc chiến này người Tống chảy máu quá nhiều.
Mà chảy nhiều nhất là cho vị Đông Hải Vương Ngô Khảo Ký kia.
Thế cục lúc này biến thành những cuộc ngoại giao bất tận giữa Đại Việt đế quốc- Lưỡng Quảng Mân quốc – Đại Mân quốc Vương thị - Đại Tống và Tiểu Việt Đông Hải quốc của Ngô Khảo Ký.
Giao tranh lúc này chỉ là lẻ tẻ mà thôi, các phe cần thở dốc một hơi.
Quốc khố Đại Việt cũng trống rỗng rồi, Đại Tống không kém là bao.
Lưỡng Quảng Mân quốc thì căn cơ mỏng chẳng có gì được gọi là tích trữ cả do đó họ càng muốn có thời gian nghỉ mệt xắp xếp lại nội bộ quốc gia.
Vương