“Tiêu Dao kiếm phổ vốn là một tuyệt học của phái Côn Luân mà chỉ có những đời chưởng môn mới có thể tu luyện.
Tiêu Dao kiếm phổ có tổng cộng mười tám chiêu thức, tất cả đều tập trung tại một chữ “Tiêu Dao”.
Khi đã tu luyện đến cảnh giới lô hỏa thuần thanh, thế kiếm đánh ra sẽ giống như dời núi lấp biển, triền miên vô tận.”
“Lão sư à, người để con nói tiếp câu sau đi.
Không chỉ thế, Tiêu Dao kiếm phổ mặc dù có sức mạnh kinh người, nhưng khi xuất chiêu vẫn có thể giữ được phong phạm tiêu dao tự tại của người cầm kiếm, tạo nên một tư thái không khác nào tiên nhân hạ phàm.
Đó mới là kiếm pháp chân chính của Đạo gia.”
Nghe nàng nói trúng phóc những từ đang chực sẵn ở cửa miệng, Ngọc Bội ho khan một tiếng, bối rối nhìn nàng.
“Người đã nói câu này với đệ tử quá nhiều lần rồi, chẳng lẽ đệ tử lại không thuộc được.”
Nói đoạn, nàng cầm lên thanh kiếm, ra sức tập lại những chiêu thức vừa mới học.
Tuy rằng vẫn chưa thể thành thạo, nhưng so với trước kia, từng đường kiếm của nàng đã dần trở nên sắc bén, nhanh nhạy.
Ngọc Bội chống cằm nhìn từng chiêu thức nàng thi triển, đầu gật liên hồi.
“Được lắm, chiêu vừa rồi không tệ! Hạ thấp cánh tay xuống chút nữa, đừng dùng lực chủ yếu ở cánh tay, phải vận thêm sức vào cổ tay mới phải.
Tốt lắm!”
Cứ thế kẻ tung người hứng, sau khi thi triển một loạt mười tám chiêu thức của Tiêu Dao kiếm phổ, nàng thở lấy hơi, trên chiếc trán trắng mịn đã lấm tấm vài giọt mồ hôi.
“Lão sư, cảnh giới của con đã đến đâu rồi?”
Ngọc Bội đáp lại ngay lập tức:
“Đột phá Phàm Cảnh, tiến vào Địa Cảnh.
Tất cả chỉ mất vẻn vẹn có một tháng.”
Nghe được câu này, sự mệt nhọc hồi nãy của nàng đã biến đi đâu mất, tiếp tục cầm kiếm lên, chuẩn bị dùng sức thêm lần nữa.
Đột nhiên Ngọc Bội cầm lấy tay nàng, ủ rũ nói:
“Con đã luyện kiếm từ lúc trời còn tờ mờ đến khi mặt trời đã đứng bóng rồi.
Nghỉ một chút đi! Chẳng lẽ con nóng lòng muốn rời xa ta thế sao?”
Nàng mỉm cười nhìn lão.
Từ buổi đêm Ngọc Bội mở lòng với nàng, tình cảm giữa hai người nay lại càng thêm khắng khít.
Thi thoảng lão sẽ nói vài câu hờn dỗi lúc nàng mải mê kiếm pháp đến quên ăn quên ngủ, điều đó làm nàng thấy rằng thì ra lão sư của nàng, không phải, bây giờ người đã là phụ thân của nàng rồi, lại có rất nhiều điểm thú vị.
Buông bỏ thanh kiếm trong tay, nàng cầm lấy cánh tay lão, trêu chọc:
“Phụ thân, con là phận nữ nhi, sớm hay muộn rồi cũng sẽ phải thành thân.
Đến lúc đó chẳng lẽ người còn muốn níu giữ con ở bên cạnh?”
Khi chỉ có hai người với nhau, và lúc không luyện kiếm, nàng sẽ gọi lão một tiếng “phụ thân”.
Ngọc Bội suy tư hồi lâu, sau đó lão đặt hai tay lên vai nàng, trầm giọng, nói:
“Người làm phụ mẫu, ai mà không hạnh phúc khi được nhìn thấy nữ nhi của mình mặc giá y, trùm lên trên đầu mạng che mặt tân nương.
Nhưng nghĩ đến việc từ nay đôi đường cách biệt, làm sao có thể không buồn? Uyển Nhi, sau này dù có thế nào đi chăng nữa, con phải lấy được một nam nhân con yêu thật lòng, và y cũng thật lòng yêu con, chỉ cần như vậy, phụ thân chắc chắn sẽ tác thành.”
Nghe lời vừa rồi, trong đầu nàng liền hiện lên một bóng lưng rắn rỏi, vững chắc, đó là tình yêu nàng vẫn luôn chôn kín tận đáy lòng.
Chua chát nghĩ đến hiện thực, nàng nở một nụ cười nửa môi, nhẹ giọng, nói:
“Nếu nữ nhi không thích lấy ai hết, cứ muốn ở vậy một mình, tiêu dao tự tại một cuộc đời, liệu phụ thân có đồng ý không?”
Lão cười lớn, gõ nhẹ vào trán nàng.
“Được, phụ thân chấp nhận.
Nữ nhi xinh đẹp của ta sẽ không thuộc về bất cứ ai hết!”
Trò chuyện một hồi, nàng liếc mắt ra đằng sau liền thấy một bóng dáng nhỏ nhắn đang lạch bạch chạy đến, trên tay còn cầm một chậu nước.
“Sư phụ, sư tỷ, hai người mau rửa mặt đi.
Sư nương nói hôm nay người muốn tự tay vào bếp chiêu đãi mọi người, còn cẩn thận dặn dò sư phụ xuống núi mua rượu đem lên đây làm chút men đưa miệng.”
Nghe thấy câu vừa rồi, nàng thì tươi cười hớn hở, Ngọc Bội lại xanh xao mặt mày.
Trông thấy vẻ mặt của Ngọc Bội, nàng cười hỏi:
“Lão sư, hình như sắc mặt người không được tốt lắm.
Chi bằng người để đệ tử và Ngân Như xuống núi mua rượu, còn người nghỉ ngơi lấy sức một lát.”
Ngọc Bội lắc đầu, đáp lại:
“Không cần đâu, ta vẫn ổn, chỉ là…”
Trước vẻ mặt khó hiểu của nàng, lão dúi vào tay nàng một lọ thuốc, nói nhỏ:
“Trước khi ăn đồ Vân Tê làm, con với Ngân Như uống sẵn một viên, chờ ta về sẽ lại tùy cơ ứng biến.”
Nàng chưa kịp tiêu hóa lời vừa rồi của lão, Vân Tê đã đứng dựa lưng vào bệ cửa, một tay cầm đôi đũa dài ngạo nghễ đặt lên vai, tay kia ngạo mạn chống nạnh, hất cằm nhìn nàng:
“Uyển Nhi, hắn lại nói xấu gì sư nương đúng không? Đợi đến lúc hắn về, sư nương phải cho hắn bài học thích đáng!”
Nàng cười khan, kéo tay Ngân Như, đi đến bên xoa dịu tính tình vừa nóng vừa lạnh đột ngột của Vân Tê.
“Sư nương nghĩ nhiều quá rồi.
Lão sư người nào dám có ý định nói xấu sư nương cơ chứ! Đúng rồi, sư nương hôm nay sẽ thiết đãi Thanh Uyển và Ngân sư muội mỹ vị nào thế?”
Vân Tê nhếch môi, thầm khen nàng thật khéo biết đổi chủ đề.
Thôi vậy, nàng đã không muốn nói, nếu còn gặng hỏi, chẳng phải nàng sẽ cho rằng vị sư nương này thật nhỏ nhen sao?
Nghĩ thầm một hồi, Vân Tê nở nụ cười đẹp đến mê hoặc chúng sinh, đon đả nói:
“Chỉ là một vài món đơn giản năm xưa lão sư con đã dạy ta làm mà thôi.
Tuy không phải cao lương mỹ vị gì, nhưng để lấp đầy cái bụng cũng không tệ.”
Thấy Vân Tê không chấp nhặt chuyện kia nữa, nàng thở phào một hơi, cảm giác như có ai vừa nhấc tảng đá nặng ngàn cân khỏi lồng ngực.
Thức ăn trên bàn đã được bày biện gọn gàng, trang trí vô cùng bắt mắt.
Ngân Như trước kia làm tạp dịch ở thanh lâu, sớm đã học qua rất nhiều kiểu bài trí đồ ăn tuyệt đỉnh, nhưng đứng trước tay nghề của Vân Tê, nha đầu không khỏi tự thẹn với lòng.
Nàng mỉm cười nhìn lọ thuốc trong tay, lòng thầm nghĩ phụ thân thật quá mức cẩn trọng rồi.
Bao năm qua đi, phụ thân chắc chẳng ngờ tới việc Vân Tê lại có khả năng nấu nướng xuất thần nhập hóa như thế.
Cất lọ thuốc còn y nguyên vào trong túi, nàng chậm rãi ngồi xuống cạnh Vân Tê.
“Sư nương, khi nào rảnh rỗi, người nhớ dạy Thanh Uyển nấu nướng nhé! Thanh Uyển rất muốn được khéo tay như sư nương.”
Ngân Như đang sầu não bên cạnh cũng chen miệng vào:
“Người dạy cho cả đệ tử nữa! Hừ, cái đám đầu bếp ở Ngọc Hương lầu luôn tự nhận mình cái gì mà đệ nhất đầu bếp kinh thành, còn ngạo mạn mặc nhận đồ ăn trong cung cũng chẳng bằng nữa chứ.
Theo đệ tử thấy, chỉ riêng phần bài trí của sư nương cũng đủ ăn đứt cái đám đó rồi!”
Vân Tê hứng thú nhìn Ngân Như, hỏi:
“Trước đây ngươi là người của Ngọc Hương lầu sao? Chẳng trách món mì trước đây ngươi làm khiến ta cảm thấy có chút quen thuộc.”
Ngân Như xoa xoa đầu, đáp lại:
“Sư nương biết đến Ngọc Hương lầu, vậy chắc người cũng từng nghe qua A Âm cô nương?”
Nụ cười trên gương mặt Vân Tê chợt cứng ngắc lại, dù rằng đã nhanh chóng lấy lại tinh thần, nhưng vẻ gượng gạo vừa rồi nàng cảm nhận vô cùng rõ ràng.
“Có, đương nhiên là ta biết.
Năm xưa A Âm cùng với một người nữa được mệnh danh là lưỡng cầm Đại Trần Quốc, tiếng đàn của nàng đã từng khiến Hoàng đế Tiêu Nhược Cẩn phải mê đắm suốt một khoảng thời gian dài.
Ta còn từng nghe lời đồn rằng Hoàng đế nhiều lần cho vời A Âm hầu hạ, nhưng nàng nhất quyết không chịu, thành ra mới phải lưu đày vào chốn lầu xanh.”
Ngừng một chút, Vân Tê quay đầu hỏi Ngân Như:
“Đã lâu lắm rồi ta chưa gặp được nàng ấy, nàng vẫn sống tốt chứ, có đợi được tên nam nhân khốn kiếp kia không?”
Đến cả việc A Âm thầm chờ đợi một nam tử đến đón nàng mà Vân Tê cũng biết, có thể khẳng định rằng hai người ngày xưa có mối giao tình cũng không đến nỗi nào, nàng thầm nghĩ.
Ngân Như thở dài một hơi, cái chết đau thương của nàng kỹ nữ đó thật không muốn kể lại chút nào.
Tại vì trong suốt khoảng thời gian còn tại Ngọc Hương lầu, A Âm chính là người thân duy nhất của Ngân Như, thế nên khi nói về chuyện này, hẳn là trong lòng nha đầu lại một lần nữa rỉ máu.
Sau khi nghe xong số kiếp bất hạnh của A Âm, Vân Tê ủ dột nói:
“Lần cuối gặp nhau trên hồ Hoa Thanh, chẳng ngờ chưa kịp tương phùng đã lại là âm dương cách biệt.
Tên nam nhân kia có ân hận cả một đời cũng chẳng thể trả nợ cho nàng.”
“Sư nương, người có biết A Âm cô nương chờ đợi ai không? Hắn ta là người như thế nào?”
Vân Tê nhìn nàng, suy tư một hồi, cuối cùng mới nói:
“Dung mạo anh tuấn, khí chất lẫm liệt, có thể nói là thiếu niên anh hùng.”
“Vậy còn tên của y?”
“Liệt Kính.”
Ngân Như lắc đầu:
“Chưa nghe qua cái tên này bao giờ, có lẽ là một kẻ vô danh.”
Vân Tê nhếch môi, đưa tay rút cây trâm cài trên mái tóc, buông thả làn tóc trắng dài như thác đổ.
“Ta đã từng gặp qua hắn, đúng thật là một trang quân tử.
Tiếc rằng võ công y không cao, nhưng lại một lòng cầu võ đạo.
Biết rằng con đường lăn lộn trong giang hồ chẳng bao giờ bằng phẳng, thế nên y mới để A Âm ở lại Ngọc Hương lầu, chờ ngày y trở về.”
Nàng ngẫm nghĩ một hồi, sau đó mới nói:
“Nếu Liệt Kính thật lòng yêu A Âm, há lại có thể để nàng ở lại thanh lâu làm thú vui tiêu khiển cho người khác? Con nghĩ trong chuyện này còn có uẩn khúc.”
Vân Tê thầm khen nàng, đưa tay vuốt theo miệng