Xuân tháng Ba…
Mưa tuyết dai dẳng hơn một năm nay trên đỉnh Tuyết Vân Sơn đã qua đi, những bông tuyết trắng xóa lẳng lặng tan thành những giọt nước mát lành để nhường chỗ cho những tia nắng hiếm hoi sà xuống, len lỏi khắp ngóc ngách Phong Linh Đường.
Tuyết tan.
Nghinh Uyên viện dần lấy lại được vẻ đẹp thơ mộng vốn có.
Ánh sương đầu ngày của tiết trời mùa Xuân nồng đượm kết tinh lại thành những giọt nước long lanh như những viên ngọc phỉ thúy, hờ hững chảy dài xuống mặt đất, tạo thành những dòng xoáy nước li ti đan xen vào nhau.
Thật khó để mà nói rằng là do cảnh nơi đây có ý, hay do lòng người có tình.
Gốc bồ liễu ngoài cửa viện Nghinh Uyên cũng bắt đầu e ấp khoác lên trên mình lớp y phục sắc hồng mỹ lệ, thanh cao, tô điểm cho nơi đây thêm vẻ phong tình kín đáo.
Được đắm chìm trong cảnh tượng “Đào hồng liễu lục” (*) cùng nhau khoe sắc như vậy thật khiến lòng người trở nên khoan khoái, chẳng còn vướng chút ưu phiền.
(*) Đào hồng liễu lục: Ý chỉ phong cảnh mùa Xuân tươi đẹp.
Giữa khoảng sân trước cửa viện có một cô nương khoác trên mình một bộ bạch y, không ngừng bặm môi vụng về vung thanh kiếm gỗ trong tay, chốc chốc nàng lại nhận được những tiếng thở dài não nề của lão nhân bên cạnh.
“Không phải ta đã nói với con bao nhiêu lần rồi sao? Kiếm chiêu không được hời hợt, phải vận sức mà đánh.”
Lời lão vừa dứt, chẳng ngờ thanh kiếm gỗ trong tay nàng vì bất cẩn mà rơi bộp xuống đất.
Lão lắc đầu chán nản rồi thở hắt ra một hơi.
“Chiêu thức tầm thường nhường vậy còn không thể thi triển, con bảo ta làm sao có thể truyền thụ cho con Tiêu Dao kiếm phổ đây?”
Nàng chán nản thả người xuống đất, đôi mắt không biết từ lúc nào đã ầng ậng nước mắt.
“Cho dù đệ tử có thể luyện được Tiêu Dao kiếm phổ của người, đệ tử cũng có thể dùng được vào việc gì đây.
Chẳng thà người đừng bắt con luyện kiếm nữa, để con xuống phòng bếp phụ giúp việc với Ngân Như còn có ý nghĩa hơn.”
Mấy năm về trước, khi Hàn Trọng còn là đại đệ tử của Phong Linh Đường thì nàng rất chăm luyện kiếm.
Ngày ngày bám theo y luyện võ.
Y luyện cự đao, nàng dùng kiếm gỗ.
Thiên phúc tu luyện khi ấy của nàng rất cao, chỉ vẻn vẹn mười tuổi đã có thể bước vào Phàm Cảnh.
Nhìn khắp Phong Linh Đường năm ấy có lẽ chẳng mấy ai có thể sáng bằng nàng.
Năm xưa Ngọc Minh Kiếm Tiên còn đang tiêu diêu giang hồ đã từng dùng một kiếm trong Tiêu Dao kiếm phổ đánh tan ba ngàn quân binh của Bắc Ly, tin này truyền đến khiến cả Đại Trần Quốc năm ấy không khỏi một phen dậy sóng.
Ngọc Minh Kiếm Tiên cũng là người đứng đầu Lương Ngọc Bảng trong suốt năm năm, là cao thủ trong những cao thủ, võ công thâm sâu khó lường.
Nếu chỉ luận bàn về võ công, trong Đại Trần Quốc e chỉ có vị tướng quân Lâm Chiến Thiên là có thể đơn đả độc đấu với Ngọc Bội mà cũng chưa chắc có thể giành được vị thế thượng phong.
Đương nhiên nhờ vào thiên phú luyện kiếm của mình mà Ngọc Bội mới có thể đứng trên đỉnh cao của võ lâm, thế nhưng cũng không thể phủ nhận được sự lợi hại của Tiêu Dao kiếm phổ, thứ kiếm phổ chí cao vô thượng của phái Côn Luân.
Lão hết lòng dạy dỗ nàng, thế nhưng giờ đây nàng lại chẳng còn tâm tư với việc cầm kiếm, khiến lão vô cùng chán chường thất vọng.
Dù là vậy, thế nhưng lão cũng chưa từng mở lời trách móc nàng.
Phận sư đồ biết bao nhiêu năm nay, lão đã sớm biết tâm tư của nàng vốn đã chẳng còn để ở trên đỉnh Tuyết Vân quanh năm buốt giá này nữa.
Thời còn niên thiếu, lão cùng đã từng theo đuổi một bóng hình, vì nàng ấy mà từ bỏ chức vị cao quý nhất của phái Côn Luân, vì nàng ấy mà đánh đổi hơn hai mươi năm nay sống trong nhung nhớ héo mòn.
Và cũng chính là vì lão, nữ nhân năm ấy đã tự đẩy bản thân vào cửa tử, chết đến vạn kiếp bất phục.
Cái chết của người trong lòng tuy rằng đã hai mươi năm trôi qua, thế nhưng vết thương lòng mãi mãi chẳng thể liền sẹo giống như một con dao ngày ngày đâm vào tim lão thêm những vết day dứt chằng chịt.
Trông thấy nàng của hiện tại, lão cảm thấy giống như bản thân đang soi vào một chiếc gương phản chiếu lại quãng đời niên thiếu ngắn ngủi trước kia; Tấm chân tình bị thời gian giày xéo, nỗi lạc lõng giữa cảnh đời bất tận âm u.
Nỗi thương cảm dần ngập đầy trong khóe mắt, lão cũng chẳng còn tâm tư đâu mà dạy dỗ nữa, lão cúi người xuống đỡ lấy thân nàng, sau đó đưa tay phủi phủi bụi đất trên chiếc áo trắng mỏng manh của nàng.
“Hôm nay đến đây thôi, ngày khác vi sư lại tiếp tục dạy con.”
Lão vừa quay gót đi khuất khỏi cửa viện, Ngân Như chẳng biết từ nơi đâu lạch bạch chạy ra chỗ nàng.
Nhìn thấy vẻ mặt u buồn của nàng, nha đầu thầm cắn môi giận dữ.
“Lão sư người thật quá đáng mà! Sao người lại nỡ nặng lời với tỷ để tỷ phải khóc thế này?”
Nàng đưa ống tay áo lên lau đi mấy giọt nước đang đọng trên khóe mi, chẳng nói lời nào.
Trông thấy nàng như vậy, nha đầu lại càng kích động nói:
“Muội sẽ đi tìm lão sư, không thể để lão sư bắt tỷ phải luyện kiếm nữa.
Hừ, tỷ đã không thích thì thôi, tại sao lại còn phải ép buộc tỷ cơ chứ? Cái thứ sắc nhọn nặng nề ấy thì có gì hay ho đâu.”
Ngân Như cầm lấy tay nàng toan kéo đi để đòi lấy công đạo, chẳng ngờ nàng không bước cùng, thành ra Ngân Như bị kéo giật trở lại người nàng.
“Sư tỷ, còn không mau đi?”
Ngân Như ngước đôi mắt đầy vẻ thắc mắc lên nhìn nàng rồi hỏi.
Nàng lúc này mới mở miệng nói, thế nhưng câu nói lại chẳng có chút nào liên quan đến câu chuyện của hai người.
“Muội… muội hãy kể cho tỷ nghe thêm về A Âm cô nương đi.
Rốt cuộc nàng ấy có đợi được ý trung nhân hay không?”
Từ cái hôm Ngân Như kể với nàng về A Âm cô nương, lòng nàng lúc nào cũng ngập tràn những suy nghĩ về cô nương ấy.
Nàng biết nàng và A Âm có một điểm giống nhau, đó chính là cả hai người đều đang cùng chờ đợi tình yêu, chờ đợi nỗi khát vọng âm ỉ cháy sâu tận đáy lòng.
Đồng bệnh tương liên, đương nhiên sẽ nảy sinh sự đồng cảm.
Trước đây Ngân Như đã từng nói với nàng rằng nha đầu vốn đã có thể thoát ra được khỏi chốn thanh lâu từ lâu rồi,