Việt quốc quả nhiên muốn cùng Sở quốc nghị hòa.
Trận chiến này giằng co hai năm, không chỉ Việt quốc vốn thiếu thốn lương thực nay thành trắng tay, mà ngay cả Sở quốc đất rộng của nhiều cũng bị trận chiến này ảnh hưởng không kém.
Cuối tháng chín, sứ giả của Việt quốc đến Sở kinh.
Sau gần một tháng đưa tới đưa lui thư nghị hòa, cuối cùng cũng đến hồi kết.
Đương nhiên, là bên chiến thắng, Sở quốc không cần phải xuất ra thứ gì, ngược lại còn nhận được một lượng lớn cống phẩm dùng để bồi thường như chiến mã, trâu, bò, dê, cừu.
Vào giữa tháng, Ly Ca đến được Vân Khê thành, đi theo còn có thái tử của Việt quốc.
Thái tử điện hạ đương nhiên không phải cam tâm tình nguyện đi theo Ly Ca, chỉ là đao đã kề cổ nên đó cũng không phải do hắn lựa chọn.
Ba tháng trước, dưới sự an bài của Sở Trạm, Ly Ca mang theo năm nghìn kỵ binh âm thầm lẻn vào Việt quốc.
Trái ngược với Sở quốc, cảnh nội của Việt quốc có ít thành trì đa phần là thảo nguyên.
Mà một số bộ lạc trong thảo nguyên kia, miễn trốn tránh cẩn thận, muốn xâm nhập cũng không phải là điều không thể.
Đương nhiên cũng có một số khó khăn khác nhưng cuối cùng Ly Ca cũng không phụ sự phó thác, mất một tháng đã đánh giết đến kinh đô Việt quốc.
Lúc đó đôi bên còn đang giao chiến, trong hai năm này binh lực Việt quốc hầu như đều tập trung ở tiền tuyến, thế nên hiện tại ở hậu phương không còn một chút binh lực nào.
Chờ đến khi Ly Ca *hóa chuyển vi linh* (chia thành nhóm nhỏ) mang toàn bộ người lẫn vào hoàng đô, kết cục đã định của tòa thành trì này chính là thất thủ.
Hơn nữa, Ly Ca võ công cao cường lẻn vào Hoàng cung bắt cóc Thái tử điện hạ của đối phương, cho nên nghị hòa là việc không thể tránh khỏi.
Tướng mạo của người sống tại thảo nguyên và quốc nội có chút bất đồng, lúc Ly Ca mang Việt quốc Thái tử trở về, Sở Trạm liền đến nhìn xem.
Mũi cao thẳng, nét mặt góc cạnh, điểm khác biệt nhất giữa hắn và người Sở quốc chính là người Sở quốc không có cặp mắt màu xanh kia (nghe miêu tả cứ như người Châu Âu ấy).
Tuy rằng đã bị bắt làm tù binh nhưng hắn vẫn kiêu ngạo như cũ, cặp mắt xanh kia như đại dươnng sâu thẳm.
Đối với vị Thái tử điện hạ này Sở Trạm ngược lại khôn có ác cảm gì, sau khi nhìn xong liền căn dặn chiếu cố hắn cẩn thận sợ bọn họ không để ý.
Địch quốc cho lui quân, Sở kinh nghị hòa khiến cho những người chinh chiến suốt hai năm qua được thả lỏng không ít.
Lại nửa tháng trôi qua, đầu tháng 11, Sở Trạm đã thay áo bông, phủ thêm hồ cừu, cuối cùng cũng nhận được tin tức từ kinh thành—kết thúc nghị hòa, Sở Hoàng triệu nàng hồi kinh.
Tính toán thời gian, Sở Trạm đã rời khỏi kinh thành hai năm, nghe được tin tức này thì không thể ức chế kích động.
Nhớ nhung xâm nhập xương tủy, lúc này cũng không nghĩ được gì, chỉ nghĩ rốt cục có thể trở về gặp nàng.
Sau khi nghĩ về tình cảm khó khăn của mình, Sở Trạm hận không thể lập tức bay về Sở kinh.
Phản ứng của nàng như vậy, tự nhiên dẫn đến mấy lời trêu chọc cùng khuyên bảo của Quan Khải.
Sở Trạm nghe xong ngoại trừ cười khổ ra cũng không nói được gì.
Cũng may ngày về kinh đã định, tâm tình nàng coi như được thả lỏng cũng không đem những người này để trong lòng.
Ngày 5 tháng 11 đầu tháng, Sở Trạm rốt cục mang theo mười vạn đại quân (10,000) hồi kinh.
Khi đi thì binh lính xếp thành hàng dài ngàn dặm, hai mươi vạn đại quân, ngoại trừ một số lưu lại trấn thủ biên cương, số người trở lại chỉ còn phân nửa.
Một nửa còn lại đã vĩnh viễn nằm lại trước cổng thành.
***********************************************
Sắc trời dần tối, tốc độ hành quân dần dần chậm lại.
Đại quân cũng không thể tiếp tục đi đến tòa thành tiếp theo.
Dọc theo đường đi, đại quân tuy rằng chưa từng tiến vào bất luận một tòa thành nào nhưng nếu có thể đóng quân bên ngoài thành thì vẫn tốt hơn.
Ví dụ như khi nhìn thấy đại quân, quan giữ thành sẽ đưa đến mỹ vị cho bọn họ, hoặc như các tướng sĩ có thể vào thành rửa mặt nghỉ ngơi một phen.
Mà khi ở vùng hoang du dã ngoại, thì những chuyện vừa nói cũng không thể có được.
Lúc chạng vạng, binh lính dò đường phát hiện phía trước có một con sông, tuy rằng Sở Trạm trong lòng muốn nhanh chóng hồi kinh nhưng cũng không thể để những binh sĩ rốt cuộc khải hoàng trở về không được thả lỏng phảihành quân ngày đêm.
Mà tạm thời dựng trại gần sông tự nhiên cũng thuận tiện rất nhiều, vì vậy liền vung tay hạ lệnh đêm nay nghỉ tạm trên khoảng đất trống trên bờ sông.
Nếu không có chiến sự, kỳ thật quân nhân rất thích không bị gò bó.
Dưới sự đồng tâm hiệp lực, chẳng mấy chốc doanh trướng đã được dựng lên.
Nhìn sắc trời còn sớm, ngoại trừ hỏa đầu quân đến bờ sông lấy nước nấu cơm ra thì binh sĩ cũng đến bờ sông rửa mặt, có người còn đi bắt cá.
Sở Trạm ngồi trên một tảng đá lớn bên bờ sông, nhìn binh sĩ vui đùa gần đó.
Nếu khí trời không chuyển lạnh, chắc chắn những binh sĩ này sẽ hận không thể nhảy xuống sông hảo hảo tắm rửa đùa nháo một phen.
Tuy rằng không thể xuống sông nhưng bầu không khí cũng rất tốt, tiếng cười sang sảng mà chân thành quả nhiên có thể truyền nhiễm từ người này sang người khác khiến cho tâm tình Sở Trạm cũng tự giác tốt lên.
Khói bếp lượn lờ, lúc Sở Trạm ngồi bên bờ sông nhìn tướng sĩ đến xuất thần, đầu bếp đã chuẩn bị tốt cơm tối.
Khi Quan Khải đến gọi người, không ngoài dự liệu nhiền thấy Sở Trạm đang thẫn thờ cầm tượng đất nhỏ, bất quá lần này trên mặt nàng nhiều hơn hai phần ý cười, xem ra tâm tình rất tốt.
Quan Khải là người đã được định chung thân, vị hôn thê chính là thanh mai trúc mã của hắn, cảm tình của hai người từ xưa đến nay cũng luônnồng đậm.
Từ biệt hai năm, tuy Quan Khải cho tới giờ chưa từng biểu thị gì nhưng đáy lòng lại thế nào không nghĩ đến? Cho nên tâm tư Sở Trạm giờ phút này, hắn hoàn toàn hiểu được.
Việc duy nhất hắn không thể lý giải chính là vì sao cho tới bây giờ Sở Trạm chưa nói qua người đó là ai, cũng không nguyện nhắc đến chuyện cầu thân.
Nghi vấn trong lòng không phải Quan Khải chưa hỏi qua chỉ là lúc trước chưa có được đáp án, hiện tại cũng như cũ không được.
Cho nên hắn đem nghi vấn chôn chặt trong lòng, đi qua vỗ vỗ vai Sở Trạm nói, "Đầu bếp đã làm tốt cơm nước, nên trở về ăn cơm chiều."
Sở Trạm nghe được thanh âm Quan Khải mới hồi phục tinh thần, ngẩng đầu vừa nhìn, quả nhiên, nhóm binh sĩ đang vui đùa ầm