[1] Turpan: cũng được gọi là Turfan hay Tulufan thuộc khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc; trong tiếng Ngô Duy Nhĩ có nghĩa là “vùng đất thấp nhất”.
Đội trưởng Lưu Giang Hà nói với ba người còn lại: nếu tín hiệu định vị sóng ngắn mà lúc trước đội khảo cổ thu nhận được, đúng là đến từ tàu ngầm Z-615 bị mất tích, rồi dần dần suy yếu, mãi đến cuối cùng lại hoàn toàn biến mất, thì chắc chỉ tồn tại một khả năng, đó chính là con tàu ngầm vẫn tiếp tục di chuyển dưới lòng đất và đi vào vũng mù nhiễu loạn nào đó, cho nên tín hiệu sóng ngắn mới bị cách tuyệt hoàn toàn như vậy.
Hải ngọng vẫn chưa tin lắm: “Nơi này ngoài cát ra thì chỉ có mỗi hóa thạch, tàu ngầm đâu phải sinh vật sống, nếu nó có rơi xuống đây thì cũng bị vùi lấp đến nửa thân, làm gì có chuyện tiếp tục di chuyển được?”
Đội trưởng liên lạc cũng thấy chuyện này đúng là rất khó tin, ngay cả bản thân anh cũng không thể tin được, rốt cục năng lực duy trì liên tục ngoài khơi của tàu ngầm cấp Z chỉ là 11 ngàn hải lý, nó đã mất tích từ năm 1953 đến nay, sao vẫn có thể tiếp tục hoạt động ở khu vực không có nước được? Nhưng theo phân tích về mặt kỹ thuật, thì chỉ có khả năng đó mới giải thích thông suốt tình hình hiện tại.
Thắng Hương Lân cảm thấy chỉ dựa vào đoạn mật mã Morse, cũng không thể khẳng định đó chính là tàu ngầm Liên Xô bị mất tích. Không động dưới lòng đất có biết bao hiện tượng dị thường quái lạ, bao nhiêu tình huống đã xảy ra vượt qua khả năng lý giải của đội thám hiểm. Vả lại, bản thân tín hiệu sóng ngắn dự đoán đến từ tàu ngầm Z-615, lai lịch cũng rất không rõ ràng; đã không thể định vị, thì cũng rất khó truy tìm nguồn gốc, khe sâu này không ổn để ở lại lâu, phải rời khỏi đây càng nhanh càng tốt.
Tư Mã Khôi đứng bên không nói năng gì, anh kín đáo quan sát đội trưởng liên lạc qua mặt nạ phòng độc, lúc này không thấy ánh mắt màu xanh âm u đâu nữa, dường như nó chỉ thoáng xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất. Nhưng thị lực của Tư Mã Khôi là 2,0(2) , nên anh tự cho mình không thể nhìn lầm, lòng nghĩ thầm: Lưu Giang Hà là quân nhân trong đội khảo cổ, lai lịch địa vị rất rõ ràng, không có điểm gì đáng phải nghi ngờ, lẽ nào anh ta lại là phần tử mai phục của tổ chức ngầm Nấm mồ xanh?
[2] Thị lực 2,0: Theo tiêu chuẩn đo thị lực của Trung Quốc, chỉ số trên thể hiện thị lực rất tốt, có thể nhìn thấy chữ e hàng cuối cùng trên bảng đo thị lực ở khoảng cách 2 mét, chỉ số thị lực của người bình thường là 1,0 đến 1,5.
Lúc này, Tư Mã Khôi đột nhiên thấy chấn động từ nơi xa truyền đến, dường như nó dội từ dưới lên, đến càng lúc càng mau; anh cúi đầu nhìn thì thấy một cuộn sương khói đậm đặc từ kẽ nứt hình mai rùa dưới chân đang trào lên, nó lấp lánh ánh sáng mờ mờ như ánh lửa ma trơi.
Thắng Hương Lân vội vàng kéo mạnh Tư Mã Khôi lại phía sau, chỉ thấy cột khói màu xanh càng lúc càng nhiều, lòng đất giống như một ống khói đang nhả cuồn cuộn, cột khói không ngừng dâng cao. Mọi người cảm thấy da thịt bỏng rát không chịu nổi, như thể chỉ cần ở lâu thêm chút nữa sẽ bị nó nướng chín. Người nào người nấy ra sức lùi ra phía sau, nhưng khắp lòng thâm cốc có đến hàng trăm điểm nhả khói, cột khói chỗ to chỗ nhỏ, có chỗ cao đến mấy chục mét, tất cả đều có màu xanh lục, vô cùng chói mắt.
Bây giờ Tư Mã Khôi mới biết: ánh sáng màu xanh nhìn thấy trên mặt nạ của đội trưởng Lưu Giang Hà, thì ra là được phản chiếu từ luồng hàn quang thể khí sản sinh dưới lòng đất. Anh lui lại mấy bước rồi hỏi Thắng Hương Lân: “Sao loại khói bụi này giống với mạch nước phun thế nhỉ, nói trào là trào ra ngay được!”
Thắng Hương Lân biết rõ sự lợi hại của nó, cô nói với Tư Mã Khôi: “Vật chất thể khí dưới lòng đất có màu xanh, thể hiện nồng độ axít bên trong cực mạnh, chỉ cần tiếp xúc với cơ thể con người, da thịt sẽ bị nó ăn mòn và đốt cháy tức thì. Mọi người mau ra khỏi đây, tuyệt đối không được để nó bắn vào!”
Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, phát hiện cả hội đã bị vật chất thể khí nóng rát trào ra như mạch nước phun bủa vây, anh đành gọi mọi người đi vòng để tránh từng cột khói đặc, trốn chạy thục mạng vào nơi sâu hơn.
Mọi người chạy đến điểm tận cùng của khe sâu thì mệt muốn đứt hơi, lồng ngực như bị bốc cháy, trên đường vẫn không thấy bóng dáng chiếc tàu ngầm cấp Z đâu cả, thậm chí còn không xuất hiện bất kỳ dấu tích nào.
Tư Mã Khôi nhìn những cột khói bụi dày đặc mang tính axít cực mạnh, đã dần khuất xa phía sau, mới bảo mọi người chạy chậm lại, đi xuyên qua khe sâu lại đến biển cát nhấp nhô trải dài vô cùng vô tận. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: vật tư không ngừng tiêu hao theo độ dài của lộ trình, nước và lương thực còn lại cũng vô cùng có hạn, không cần thiết phải mất thời gian quay về nhặt ván trượt cát, thế là theo sự chỉ dẫn của đồng hồ thám trắc, cả đội tiếp tục bước từng bước dài tiến về phía trước.
Sau khi đội khảo cổ băng qua nhiều triền cát dài, phía dưới dải cát bắt đầu xuất hiện kết cấu địa tầng phong thực lún xuống, dòng nhiệt đối lưu vận động dữ dội trong quyển Manti khiến tầng dung nham bị khô nứt, sự biến thiên của tự nhiên tạo nên địa mạo hiếm có, vừa hùng vĩ vừa thần bí, rốn sa mạc dưới lòng đất hình thành một nơi gọi là bồn địa Turpan.
Bồn địa Turpan rộng lớn này cũng giống với sa mạc Gobi, nó không ngừng bị cát lún nuốt chửng. Mọi người đi sâu vào biển cát mênh mông và hoang vu, không một dấu chân người, bỗng trước mặt xuất hiện một tòa thành cổ đại rất kỳ dị, quy mô to lớn, nhưng nó sớm trở thành chốn hoang phế không có người ở, xung quanh chỉ còn những bức tường đổ nát ngắt quãng còn sót lại, trong vách tường là vô số huyệt động, đá tầng tầng lớp lớp dày đặc, khe rãnh ngoằn ngoèo sâu hút, những bức tượng người bằng đá cao to lừng lững đứng cô quạnh giữa biển cát, nó bị gió và cát chia cắt thành các đường rãnh thuôn dài đầu to đuôi nhỏ dần, giống như hình cây nấm, trông vừa uy nghiêm vừa thâm trầm.
Đội khảo cổ xuyên qua biển cát mênh mông trong cực vực, đến nơi này, người nào cũng mệt mỏi nhếch nhác, bỗng nhiên lại tìm thấy một tòa thành cổ bị chôn giấu dưới lòng đất, ai nấy đều tim đập loạn xạ, tư duy rối bời, cảm tưởng mình như đang lạc vào nơi tận cùng của thế giới, chạm tới hơi thở u minh, sâu thẳm của thời viễn cổ xa xôi.
Tư Mã Khôi không dám lơ là, anh dẫn ba người leo lên tường thành vào bên trong ngó nghiêng một hồi. Ngoại trừ gió cuốn cát bụi, thì trong thành cổ chỉ là miền tĩnh lặng và bóng tối vô biên, đó là tòa thành chết, hoàn toàn không có dấu tích của sự sống.
Thắng Hương Lân bới đất cát, thấy bề mặt các phiến đá xây tường xuất hiện rất nhiều lỗ rỗng, thì biết đây chính là đá dung nham, khi núi lửa thời cổ đại phun trào rồi đông kết mà thành.
Lúc này, ở nơi xa trong tầng mây bỗng lóe lên lằn sét đánh; nhờ luồng ánh sáng yếu ớt, mọi người thấy sâu trong thành cổ có một đỉnh núi cao, đen sì sì, cả thành trì vây quanh ngọn núi đó, ngọn núi không có chóp nhọn, và dường như nó là ngọn núi lửa đang ngủ yên dưới lòng đất.
Tư Mã Khôi suy đoán: đây là ngọn núi lửa hình thành do dung nham ở tầng quyển Manti phun trào, còn tòa thành cổ trải qua hàng ngàn năm mà vẫn hoàn toàn nguyên vẹn. Có thể ngọn núi này chỉ là núi lửa chết, đã ngừng hoạt động từ lâu, nên cũng không cần lo lắng lắm về nó; có điều anh thực