Mê Tông Chi Quốc IV - Cửu Tuyền U Minh sẽ tiếp tục hành trình mạo hiểm của những người bạn đồng hành cùng nhau vào sinh ra tử. Ở tập này, đoàn thám hiểm bắt đầu cuộc hành trình xuống địa ngục, họ sa chân vào vòng xoáy hư vô. Vực sâu không đáy thăm thẳm dưới lòng đất liệu có phải vương quốc của những vong hồn vạn kiếp không thể siêu sinh? Hàng loạt hiện tượng quái dị liên tiếp xảy ra. Tấm bia đá của tộc người Bái Xà trở thành manh mối duy nhất có thể phá giải chuỗi ẩn số thần bí. Cái giá phải trả cho việc giải mã nội dung tấm bia là mạng sống. Một dãy số ẩn chứa biết bao mầm họa. Phải chăng phía sau tấm bia cổ còn che giấu một bí mật kinh thiên động địa hơn thế…
Mê Tông Chi Quốc IV – Cửu Tuyền U Minh sẽ khép lại những hành trình sinh tử vượt thời gian, vượt không gian tưởng chừng đã đi đến hồi kết, số phận các nhân vật dường như đã được định đoạt. Tuy nhiên, với lối viết tinh tế của Thiên Hạ Bá Xướng và khả năng khởi tạo những ẩn số kịch tính đến mức ngộp thở sau đó tháo cởi nút thắt một cách hợp lý, tập 4 của Mê Tông Chi Quốc đã mang đến cái kết mở với nhiều lối suy tưởng đầy ám ảnh ngay cả khi bạn đã đặt cuốn sách xuống.
Nhà văn Thiên Hạ Bá Xướng tên thật là Trương Mục Dã, sinh năm 1978, người Thiên Tân. Anh được ca ngợi là nhà văn có trí tưởng tượng phong phú bậc nhất trong dòng văn học thám hiểm, kinh dị Trung Quốc. Anh là tác giả của bộ truyện “Ma thổi đèn” - bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi nhất ở Trung Quốc, chỉ sau những tác phẩm võ hiệp của Kim Dung. Với Mê Tông Chi Quốc, tác giả Thiên Hạ Bá Xướng đã kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thần bí trong văn hóa phương Đông và những khái niệm văn hóa hiện đại của nhiều nơi trên thế giới. Phong cách đó không chỉ làm nên điểm độc đáo cho Mê Tông Chi Quốc mà còn tạo cho tác giả một “cõi giang hồ” riêng biệt.
Phía dưới vòng tròn nham thạch gần như là lò nung cao áp, nhưng mãi đến khi hội Tư Mã Khôi lún dần xuống vực sâu theo vỏ ốc Anh Vũ, rồi rơi xuống thâm cốc nằm chìm hẳn vào quyển Manti, họ mới phát hiện mây gió bao quanh thủy thể tạo thành vòng tròn từ trường nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc đã giúp họ ngăn cách tuyệt đối với dòng dung nham nóng bỏng và địa áp phía ngoài.
Mọi người không tìm thấy tung tích của Nấm mồ xanh, trước mắt chỉ còn bóng đêm hư vô. Nhờ những đốm sáng yếu ớt do ma sát địa từ ở phía xa phát ra, cả hội nhìn thấy một bóng đen khổng lồ nằm sừng sững trong màn sương mù dày đặc, mọi người liền lấy đó làm vật tham chiếu, di chuyển dần dần từ trên cao xuống rồi tiến về phía trước.
Trong khe núi sâu nấm dại mọc um tùm, vỏ ốc cúc đá lô nhô trên mặt đất, địa hình nhấp nhô cao thấp, nơi lún xuống có nhiều khe nứt, chỉ cần lại gần một chút sẽ cảm nhận luồng hơi nóng như hơi chạy tàu hỏa phả vào cơ thể, trong đó toàn là những hang động pha lê tự nhiên, động nào cũng chứa đầy nước. Nếu lấy đèn quặng soi kỹ sẽ phát hiện những mỏm pha lê nhọn hoắt, sắc lẻm đâm tua tủa như rừng rậm, thật là một cảnh tưởng kỳ lạ đến nỗi khó ai dám tin là thật.
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ cần lại gần và dừng lại bên cánh rừng pha lê ẩm ướt, oi nóng lâu thêm một chút là cảm thấy tim đập rất nặng nề, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, quần áo giày dép sũng nước, nên ai nấy đều tranh thủ nghỉ ngơi lấy lại sức và liên tục uống nước để duy trì thể lực.
Tư Mã Khôi thấy pin và cacbua tiêu hao quá nhanh, mà tốc độ di chuyển của cả đội lại quá chậm chạp nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng nhất thời anh cũng không nghĩ ra cách gì, chỉ biết than thầm: “Năm xưa Tần Quỳnh gặp nạn phải bán cả ngựa, coi như xui tận mạng, thế mà giờ bọn ta còn không bằng Tần Quỳnh, đừng nói ngựa, ngay cả lạc đà cũng chẳng có nữa là”.
Hải ngọng cũng sốt ruột như kiến bò chảo lửa, nhưng anh vẫn để bụng chuyện lúc trước, nhìn Nhị Học Sinh mà “ngứa mắt trái, đỏ mắt phải”, nhân lúc nghỉ ngơi và lấy thêm nước, anh bĩu môi nói với Tư Mã Khôi: “Thằng mọt sách kia đáng ghét thế không biết, nhìn loại người như cậu ta, tớ lại liên tưởng đến một chuyện”.
Tư Mã Khôi thờ ơ hỏi lại: “Cậu liên tưởng đến chuyện gì?”
Hải ngọng đáp: “Liên tưởng đến nồi cơm to đùng chúng ta vừa nấu chín, sắp được ăn đến nơi thì bị thẳng tiểu tử kia hất cả vốc cát vào. Đúng là đồ thất đức!”.
Nhị Học Sinh tự cảm thấy xấu hổ, nên mặc Hải ngọng châm biếm, bới móc, cậu ta chẳng dám ho he gì, chỉ lặng thinh cúi đầu không đáp.
Cao Tư Dương sợ mọi người lại cãi nhau thêm chập nữa, cô bèn lảng sang chuyện khác, hỏi Tư Mã Khôi xem đã có kế hoạch gì chưa?
Tư Mã Khôi cảm thấy bóng đen trong sương mù rất không lành, nó cao chí ít cũng tới ngàn mét, e rằng tấm bia Vũ Vương không thể cao to dường vậy, có khi nó là dãi rồng từ trong mạch đất chảy xuống cũng chưa biết chừng, bây giờ chỉ còn cách liều mạng đến tận nơi xem rõ trắng đen thế nào thôi.
Hải ngọng hỏi: “Dãi rồng… là cái gì hả Khôi?”
Tư Mã Khôi đáp: “Ngay từ thời Hán Đường, thành Lạc Dương xảy ra một cơn địa chấn dữ dội, cả thôn làng bị sụt xuống lòng đất, duy có một người tên là Vương Nguyên thoát khỏi kiếp nạn, bởi ông ta may mắn gặp được “dãi rồng”.
Nghe nói, Vương Nguyên là người thông thạo huyền cơ, tu đạo, luyện khí, khi mặt đất nứt toác thôn làng sụt xuống, ông ta vẫn đang nằm ngủ trong nhà. Lúc mới bị lún, cả thôn chưa hề hấn gì, người dân trong thôn vẫn gào thét kêu cứu được, nhưng đến lúc sụt xuống tận suối sâu, thì già trẻ gái trai, chó mèo gà lợn trong thôn đều chìm nghỉm trong nước, chỉ mình Vương Nguyên từng luyện huyền thuật mới nổi trên mặt nước và thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, ông ta rơi xuống vực sâu cách mặt đất hàng ngàn trượng, bị dòng nước cuốn trôi vào một hang động rất lớn, đột nhiên ông ta thấy có một con quái xà thò đầu xuống, từ miệng nó chảy ra thứ dịch đen ngòm, thân nằm vắt dọc vách đá, lừng lững như cột đình.
Ông ta sợ hãi cuống quýt vòng sang bên tháo chạy, nhưng chưa đi được bao xa thì bụng đói đến nỗi không lê nổi bước chân, đưa tay quờ quạng xung quanh thấy mặt đất toàn là bụi đất rất mịn, mềm nhão, lại còn phảng phất mùi thơm như mùi cám gạo, đang lúc đói vàng mắt, ông bèn nắm một vốc nhét bừa vào miệng, ăn xong thấy quả nhiên giải quyết được cơn đói. Từ đó, ông cứ ăn thứ đó để duy trì sự sống. Ông đi ròng rã suốt ba năm dưới lòng đất mới thoát được ra ngoài. Sau này, ông ta đem chuyện kể cho một vị học giả uyên bác. Vị học giả nghe xong bèn bảo Vương Nguyên, chất dịch dấp dính màu đen là dãi của con rồng già sống trong sông Hoàng Hà nhả ra, nếu uống chất dịch đó sẽ trường sinh bất tử, còn đám bụi đất kia là dãi rồng bị phong hóa biến thành bùn, ăn nhiều đến đâu cũng chỉ có tác dụng no bụng chứ không có hiệu quả siêu việt gì hơn.
Hải ngọng thần người nghe, rồi chép miệng: “Bọn mình mau qua đó xem sao, uống được dãi rồng có khi lại biến thành thần tiên cũng nên”.
Cao Tư Dương nói: “Nếu thật có dãi từ miệng con rồng già rớt xuống, thì tôi cũng chẳng dám uống, nghĩ đến đã thấy buồn nôn…”
Thắng Hương Lân đoán: “Dãi rồng dưới lòng đất mà người xưa nói đến, có lẽ là một loại khoáng quặng dạng lỏng nào đó, ăn vào là mất mạng đấy!”.
Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã cho rằng câu chuyện này vô căn cứ, nhưng anh vẫn kể để trấn an mọi người. Vì trong vực sâu tràn ngập sương khí mịt mù khắp tứ bề, ngoài chiếc bóng mờ ảo kia, thì không tìm thấy bất cứ vật tham chiếu nào khác, nên giờ chỉ còn cách liều chết xông vào, mới mong tìm thấy chút manh mối. Anh quan sát thấy xung quanh vương vãi đầy vỏ ốc cúc đá, ở đây không hề có dấu tích của sự sống nhưng sương khí dưới lòng đất mù mịt, nóng ẩm thế này kiểu gì chẳng tồn tại những vật thể sống khác, tính mạng của các thành viên trong đội có thể bị uy hiếp bất cứ lúc nào. Anh hiểu rõ, chỉ cần lơ là đôi chút là sẽ đi sai cả ván cờ, chỉ cần thiếu cảnh giác đôi chút, là có thể sẽ xảy ra sự cố. Bởi vậy, tuy ngoài miệng anh vẫn nói điềm nhiên, nhưng trong lòng không dám khinh suất chút nào.
Cả hội vừa đi vừa nói chuyện, đi được chừng vài mét, khoảng cách giữa họ với chiếc bóng màu đen ngày càng rút ngắn dần. Cuối cùng, mọi người phát hiện thứ đó không phải dãi rồng, cũng không phải bất kỳ vật thể gì, mà là một cột khói đen. Giống như luồng khói đen bốc lên sau khi thiêu cháy cả thảo nguyên, cột khói được tạo thành từ vô số khói bụi đậm đặc ngưng tụ, tổng thể trông giống hình chóp tròn lộn ngược, càng lên cao thì càng to dần ra, nom tựa một vòm nấm khổng lồ sừng sừng nằm bất động giữa tầng không, con người đứng dưới chân