Hồi thứ tư: Bom địa chấn
Thì ra chiếc thùng hàng bằng nhôm giống như thùng phuy kia lại là thùng chứa bom ngoại cỡ, bên trong đựng một trái "bom địa chấn" hạng nặng. Vào thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, quân đội Hoàng gia Anh từng trang bị hàng loạt bom chấn động cỡ lớn, quả nặng nhất phải lên tới chục tấn, được gọi là "Grand Slam"[25], sức hủy diệt vô cùng đáng sợ.
Loại bom cỡ lớn này, đa số đều do máy bay ném bom Lancaster từ không trung thả xuống, chuyên dùng để phá hủy vật chắn kiên cố dưới lòng đất được đúc bởi bê tông cốt thép. Do bom rơi xuống với vận tốc cực nhanh, nên sóng xung chấn hình thành sau khi phát nổ sẽ khuếch tán rộng ra tứ phía, dẫn đến hiệu quả gần giống với hiện tượng động đất, bởi vậy nó còn có tên là "bom địa chấn". Nhưng tuyệt đối không thể coi thường sóng xung chân sinh ra do quá trình phát nổ mạnh, vì nó có khả năng sát thương rất cao đối với quân địch đang lẩn trốn trong đường hào giao thông hoặc trong hầm phòng không.
Hội Tư Mã Khôi đều đã từng trải qua chiến dịch Kunlong ở giai đoạn ác liệt thảm khốc nhất. Lúc đó quân chính phủ muốn khai thông phòng tuyến sông Irrawaddy, nên đã điều động rất nhiều loại pháo hạng nặng, quần thảo đánh phá khắp trận địa kiên cố của quân đội cộng sản. Tuy rằng trước đó quân cộng sản đã thực hiện công tác chuẩn bị rất chu toàn, đào nhiều hầm ẩn trú và chiến hào sâu, sẵn sàng tư thế chiến đấu, nhưng dưới làn pháo lửa dữ dội, họ vẫn gánh chịu hậu quả thương vong rất nặng nề. Trong số những binh sĩ hi sinh, có chín mươi phần trăm không phải chết trực tiếp do bom nổ, mà do pháo hạng nặng gây chấn động làm chết đứng ngay trong chiến hào. Sau chiến dịch này, nguyên khí quân cộng sản bị hao hụt thảm hại, không còn khả năng chiến đấu trực diện với quân đội chính phủ nên đành phải rút lui vào núi thực hiện chiến thuật đánh du kích.
Bởi vậy bọn họ hiểu rõ hơn ai hết, đừng thấy hàng trong khoang máy bay là kiểu bom đời cũ mà coi thường, bởi cho dù quả bom gây chấn động nặng cả tấn này còn lại đến tận ngày nay, thì nó vẫn là loại vũ khí khủng khiếp nhất. Một khi nó đã nổ, cho dù ai may mắn không bị tan xác ngay tại hiện trường, thì lục phủ ngũ tạng của họ cũng bị sóng xung chấn ép cho dập nát.
Tuy Tư Mã Khôi là người phản ứng rất nhanh, nhưng cũng không thể ngờ nổi bảo vật Miến Điện trong khoang hàng chiếc tiêm kích vận tải lại là một quả bom địa chấn lạnh tanh thế này. Vật lù lù như một đống thiếc xám sắt nguội kia chắc phải nặng đến cả tấn, nếu chỉ dựa vào sức của sáu kẻ may mắn sống sót trong đội thám hiểm thì làm sao có thể xoay vần nổi nó? Huống hồ, trên đời này sao lại có chuyện phi lý như thế, làm gì có kẻ ăn no rỗi hơi, thuê bao nhiêu đoàn thám hiểm đến núi Dã Nhân chỉ để tìm một quả bom ngàn cân như vậy?
Lúc này Tư Mã Khôi mới cảm nhận một cách sâu sắc về chuỗi sự kiện liên quan đến chiếc máy bay tiêm kích vận tải, chỉ e nó phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà giờ đây anh được biết, vốn dĩ con đường của hội anh và Ngọc Phi Yến đã khác nhau, hai bên lại chẳng hề có gì liên can; nhưng theo lời hứa lúc trước, hội anh cũng chỉ cần trợ giúp đội thám hiểm tìm thấy chiếc tiêm kích vận tải trong khe núi núi Dã Nhân, sau đó mang "hàng" ra ngoài. Bây giờ tình hình chuyển biến đột ngột thế này, anh không thể không hỏi đối phương xem rốt cục thế nào.
Hải ngọng cũng chẳng nể nang gì, quay sang chất vấn Ngọc Phi Yến: "Nói thật cho cô biết, Hải ngọng tôi vài bữa nay chưa giết đứa nào, chân tay cũng ngứa ngáy khó chịu lắm rồi đây, nếu như cô không giải thích lý do nghe cho lọt cái lỗ tai, thì đừng trách bọn ông cho nếm tí mùi."
Kỳ thực sau khi nhìn thấy hàng trong khoang máy bay, Ngọc Phi Yến cũng cảm thấy rất bất ngờ, nhưng trong lòng cô ta đúng thực cũng có vài điều giấu giếm hội Tư Mã Khôi. Đang lúc cô ta định nói cho Tư Mã Khôi biết, thì nghe La Đại Hải giở giọng uy hiếp, nên chẳng khách khí nữa, đốp luôn: "Anh bạn họ La đúng là kẻ nhiều lời; tôi cũng nói thật cho anh biết, trong khoang chỉ có mỗi quả bom địa chấn này thôi, nó chính là hàng mà đội thám hiểm cần tìm đấy. Có điều chúng ta chẳng cần phải mang nó ra khỏi núi, mà chỉ cần làm nó phát nổ là được. Những việc khác các anh không cần hỏi nhiều, chỉ cần làm theo lời tôi nói là được."
La Đại Hải nghe vậy chế nhạo: "Cô nói thế thì khác gì không nói, định dọa ma bọn này đấy à? Để cô tự nói ra là Hải ngọng tôi đã chừa lại cho chút sĩ diện rồi mà còn chưa biết? Đừng biến mình thành kẻ được cho liêm sỉ mà vẫn không biết liêm sỉ là gì."
Ngọc Phi Yến làm gì có chuyện nuốt trôi mấy lời này, cô ta cười nhạt đáp: "Ba tờ giấy dán thành một cái đầu lừa, mặt của anh cũng to thật đấy."
La Đại Hải càng nghe càng ức chế, anh nạt nộ: "Hải ngọng ta gặp bọn cắp vặt các cô, đúng là cáo hoa nằm ấp ổ gà, nói lý không được, đành phải dùng nắm đấm hỏi chuyện vậy..."
Tư Mã Khôi thấy hai người này như thể ăn nhầm phải gan hùm, nói chuyện hung hăng, bất cần, căn bản chẳng giải quyết nổi vấn đề gì, đành phải ra mặt khuyên giải.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Anh nói với Ngọc Phi Yến: "Nói thế dễ làm tổn thương người khác lắm đấy! Đại trượng phu thân chết, tiếng vẫn còn, nếu cô tự tiện chà đạp danh dự người khác như thế, tôi cũng chỉ còn cách tạ lỗi cáo từ tại đây để cất bước về cố hương thôi." Nói xong anh gọi ba người còn lại đến, quay lưng như thể định bỏ đi thật.
Ngọc Phi Yến lạnh lùng hừ lên một tiếng, trợn mắt nói với Tư Mã Khôi: "Nhìn bộ dạng của anh kìa, vừa nhắc đến về nước là hí ha hí hửng, trong suốt hai ngày tôi quen anh, chẳng bao giờ thấy anh hào hứng như thế, hay là ở trong nước có bóng hồng nào đang chờ?"
Tư Mã Khôi nghe cô ả nói thế, cũng không tránh khỏi có chút bực mình: "Nhà cô bán dấm đấy à, sao nói gì mà chua ngoa thế?" Ba người chẳng hợp lời, càng nói càng căng thẳng, trong khi gã Gấu trắng người Nga thì từ đầu chí cuối mặt đều lạnh như tiền. Gã đang chăm chú quan sát kết cấu của quả bom địa chấn, hoàn toàn vô cảm với tất cả những việc khác, còn Karaweik lại trễ miệng ngoác ra nụ cười ngờ nghệch, mọi người chẳng coi lời của cậu vào đâu, may mà nhờ Tuyệt khuyên giải, cuộc cãi vã mới tạm lắng xuống.
Ngọc Phi Yến bình tĩnh trở lại, tự biết hiện giờ mình là kẻ thân cô thế yếu, nếu làm hội Tư Mã Khôi điên tiết lên, thì khó mà thu dọn nổi chiến trường. Thế là, cô ta đành nói rõ toàn bộ quá trình sự việc cho hội Tư Mã Khôi nghe. Nhóm người của cô ta quả thực được "khách hàng" thuê để đi tìm chiếc máy bay vận tải bị mất tích của không quân Hoàng gia Anh; nhưng cô ta cũng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khuôn mặt thực sự của khách hàng, chỉ biết chiếc máy bay tiêm kích vận tải chuyên chở cổ vật Miến Điện chuẩn bị được bí mật đưa vào viện bảo tàng đế quốc Anh, nên nhiệm vụ của đội thám hiểm là vào khe núi dưới lòng đất, tìm "hàng" trong khoang máy bay. Trước đó, đội thám hiểm được thông báo: "hàng" trong khoang máy bay vô cùng nguy hiểm. Trước khi xuất phát, cả đội lại nhận được một bức mật hàm niêm phong dấu đỏ, kèm theo chỉ thị, chỉ khi nào tìm thấy chiếc tiêm kích bị mất tích, đồng thời xác định chính xác số hiệu hàng hóa, mới được phép mở bức mật hàm và giải quyết "hàng" theo phương thức nói trong thư. Thông tin trong bức mật hàm được viết bằng chất dịch của cá mực, vết chữ sau khi gặp không khí sẽ lập tức bốc hơi biến mất, không để lại chút dấu tích nào.
Ngọc Phi Yến tìm thấy khoang hàng, xem rõ chỉ thị trong mật hàm, mới biết mục đích của chuyến mạo hiểm này là phải dẫn nổ quả bom địa chấn, còn về chuyện bảo vật Miến Điện chứa trong máy bay tiêm kích, chẳng qua chỉ là cái bóng nhằm che đậy chân tướng sự thật mà thôi.
Về tình hình "khách hàng", Ngọc Phi Yến chỉ biết đó là một vị tài phiệt trong thế giới ngầm, được gọi bằng biệt danh Nấm mồ xanh. Tiền thân của tổ chức này có thể truy ngược về những năm thế kỷ mười sáu, nó được thành lập bắt đầu từ Công ty Britain - Đông Ấn. Công ty Đông Ấn tiến hành các hoạt động thương mại viễn dương ở Nam Á, chuyên buôn bán nha phiến, buôn lậu thuốc lá, thỏa sức cướp đoạt tài nguyên kinh tế, tiến hành khuếch trương chủ nghĩa thực dân cho đế quốc Anh, đồng thời âm mưu chiếm nguồn lợi nhuận khổng lồ. Chính phủ Anh ủy quyền cho công ty Đông Ấn tất cả mọi quyền lực, như quyền lũng đoạn thị trường, quyền huấn luyện quân đội, quyền tuyên chiến - giảng hòa, quyền lập tòa án phán quyết cư dân các nước thuộc địa và bản quốc, nên nó dường như trở thành đại diện chính thức ở nước ngoài của chính phủ Anh.
Thế nhưng quy luật ở đời: cực thịnh tất sẽ suy, cùng với sự phát triển rực rỡ của nền tư bản công nghiệp, công ty Đông Ấn vốn dựa vào sự lũng đoạn của nền tư bản thương mại, cuối cùng cũng không tránh khỏi vận mệnh phá sản giải thể. Nhưng sự biến mất về thể xác chẳng qua chỉ là lớp vỏ ngoài của công ty Đông Ấn, còn kẻ thao túng đích thực đứng sau lưng thì ngược lại có thể nhờ đó mà gỡ bỏ được cái xác ung nhọt nặng nề, rồi lợi dụng mạng lưới quan hệ mà công ty Đông