Hồi thứ bảy: Hơi thở
Ngọc Phi Yến sợ đến mức mặt thất sắc. Cô giương khẩu súng xung phong Uzi, nhằm thẳng vào mục tiêu quét một loạt đạn nghe "pằng pằng pằng", nhưng tốc độ di chuyển của sinh vật đó lại nhanh như gió cuốn, điện xẹt, chỉ thấy nó thần tốc vụt lướt, nên cũng chẳng rõ là nó đã xuyên qua các luồng đạn dày đặc để thoát thân, hay trước khi khẩu Uzi kịp phát nổ nó đã bay đi mất. Đôi mắt của loài người không thể nhìn rõ quỹ đạo chuyển động của nó, nên đợi khi phản ứng lại thì đã muộn. May mà màn khói đặc do lựu đạn phốt pho sản sinh phun trào mù mịt, thêm vào đó màn sương khí cũng đã giảm nên tốc độ của loài sinh vật ấy cũng trở nên chậm chạp hơn một chút. Lúc nó định lao đến trước mặt Ngọc Phi Yến, lại bị khói lửa giữa không trung chặn đứng, chẳng kịp nhìn rõ nó quay người chuyển mình thế nào, mà ngoắt một cái thân thể đã vòng thẳng tắp về phía sau, đột ngột luồn vào trong sương, nghe âm thanh dường như đã bỏ đi khá xa.
Trong thời gian ngắn ngủi như vậy, cả hội liên tiếp lâm vào một loạt cảnh hiểm nguy, chẳng còn khoảng trống cho người ta kịp thở ra một tiếng, rồi mọi người lần nữa lại thoát khỏi bàn tay tử thần, nhưng hồn vía ai nấy đều thất kinh, tim nhảy loạn xạ trong lồng ngực. Hơn nữa, mọi người cũng biết tình hình đúng như Tư Mã Khôi tiên liệu, tòa tháp chết đó quả nhiên ám chỉ Udumbara sinh ra sương mù thần bí và loài rắn bay rình mồi trong sương mù. Chỉ có điều, loài "rắn" đó thực ra không hẳn là rắn, mà là một loài sinh vật đáng sợ chưa bao giờ nhìn thấy, mà cũng chưa bao giờ nghe thấy. Tư Mã Khôi tuy thông hiểu phương thuật nhận biết tính vật, nhưng cũng không thể tưởng tượng nổi trên thế giới lại tồn tại một dị chủng như vậy.
Tương truyền, từ thuở hồng hoang sơ khai, thiên địa hỗn độn, ngũ hành sinh khắc, lúc ấy vạn vật còn chưa thành hình, mà mới chỉ như một mớ hư vô, hỗn độn. Khi hỗn độn được khai phá, những vật dương trong và nhẹ thì trở thành Thiên, những vật âm nặng và đục thì trầm mình vào trong Địa. Giữa chốn hồng hoang tồn tại một dị vật, chuyên lấy hỗn độn làm thức ăn, tên gọi là "Ly chùy", thân mình nó tròn dài, trong như tuyết ngân, chuyển động nhanh tựa ánh sáng, vô hình vô ảnh, người thượng cổ nhìn thấy nó mà như chẳng thấy gì... Tư Mã Khôi nghĩ, chắc quá nửa nó chính là loài sinh vật này rồi. Nghe động tĩnh trong sương mù, thì biết số lượng chúng không ít, nên anh lại nghĩ: chắc chắn chúng chính là thủ phạm khiến toàn bộ nạn nhân mất tích trong núi Dã Nhân đều tan biến không dấu vết, có lẽ chúng đã nuốt chửng họ, ngay cả cặn bã xương xẩu cũng chẳng để lại.
Lúc này, nước tù sót lại nơi trũng cũng chẳng còn bao nhiêu, trong khi bên ngoài tòa điện đá sương mù vẫn dày đặc như bức tường thành, chẳng thể ngăn chặn thêm được nữa. Nhờ ánh sáng trắng chói mắt đang bốc cháy, Tư Mã Khôi thấy sương mù phía sau bức tường tan hoang trong tòa điện đổ nát có vẻ khá thưa mỏng, liền dẫn ba người còn lại, đi xuyên qua chỗ hổng của tường thành ra ngoài, tạm thời thoát khỏi khu vực mịt mờ sương mù.
Ngọc Phi Yến nhìn thấy sương khí phía trước không còn dày đặc, liền lấy đèn pin ra soi, thì phát hiện phía sau điện có một thân cây cổ thụ chằng chịt những rễ dài buông thõng, bên trong ẩn chứa rất nhiều Udumbara chưa thành hình. Có điều, sương mù phía sau cứ bám riết lấy mọi người như hình với bóng, căn bản chẳng cho họ cơ hội dừng chân nghỉ ngơi hay quan sát, nên họ chỉ cắm cúi chạy loạn xạ về phía trước. Tuy chạy là vậy, nhưng trong lòng ai nấy đều biết rõ, đó chỉ là sự sai khiến của bản năng mưu cầu sinh tồn, kỳ thực giành giật chạy trốn lúc này chẳng có mấy ý nghĩa, không bao lâu nữa, tất cả sẽ bị sương mù nuốt chửng, sự khác biệt giữa việc chạy trốn và ngồi xuống bó tay đợi chết chẳng qua chỉ là vấn đề sớm hay muộn.
Đúng lúc cuống quýt chọn đường, đột nhiên họ lại thấy ánh đèn lúc ẩn lúc hiện cách đó khoảng mười mấy mét, cự ly khá gần, nhưng vẫn không thể nhìn một cách chính xác, chỉ có thể lờ mờ cảm nhận đó chính là ánh sáng của pháo tín hiệu mà họ đã trông thấy ở cạnh hàng xe tải, đồng thời chiếc máy bộ đàm không dây lúc đó cũng không ngừng phát ra tín hiệu lặp đi lặp lại cùng một nội dung: "Tôi đang... ở trong rắn... tôi đang... ở trong rắn..."
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: "Thông điệp bằng ánh sáng này lai lịch bất minh, chẳng biết có phải nó đang dẫn dụ chúng ta đến gần dãy xe tải Dodge hay không? Sao lúc này nó lại xuất hiện ở nơi sâu trong khu hoang phế, chỗ bức tường đổ nát, rốt cục nó có ý nghĩa gì? Không lẽ bị rắn nuốt chửng vào bụng thì an toàn chăng? Nếu thực như thế, thì thà giờ đây ông mày cứ "bòm" một phát vào huyệt thái dương, mà kết liễu cuộc đời cho sướng.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Nhưng rồi nghĩ lại, thấy đoạn tín hiệu này dường như hàm chứa ẩn ý khác, chỉ là chẳng biết ai đã phát ra nó? Nếu đối phương là hạng lương thiện, thì tại sao không chịu hiện thân ọi người biết? Chỉ sợ đó là cái bẫy, không phòng không xong. Nhưng tình hình trước măt, cũng chỉ còn đường chết mà chẳng còn đường sống thì việc gì mình phải sợ nó nhỉ? Thế là anh ôm súng vào ngực, lần theo hướng ánh sáng đi về phía trước.
Bộ dạng bốn người thê thảm đến cực độ, dường như vừa đi vừa lăn, vừa bò vừa lết, vội vàng hấp tấp tiến bước, còn bốn phía vẫn một màu đen ngòm ngòm, chẳng hề thấy nửa đốm sáng. Thế rồi trước mặt họ chợt có khối đá lớn màu xanh đen sừng sững chắn ngang, bề mặt đá nhẵn thín, không có lấy nửa cọng cỏ, phần lồi lên trên mặt đất to như cả quả đồi, hình thù chẳng khác gì chiếc bát tô úp ngược, trông rất nổi bật, phần đáy trải hàng bậc thang bằng đá đen đã vỡ nát, tận cùng là đáy động đã bị đá chặn phân nửa, cửa động được chạm khắc thành hình đầu con mãng xà. Có lẽ nó vốn dĩ là phần đáy của tòa tháp cổ sừng sững, nhưng sau khi phần đỉnh của tòa bảo tháp thứ bảy trong "tám tòa bảo tháp cát tường" được mệnh danh là "Bảo tản" (tức chiếc ô quý) bị sụp đổ, thì nó chỉ còn lại mỗi tàn tích móng tháp hình chữ thập gãy góc.
Phía sau quả đồi đá là tòa thành bốn triệu bảo tháp bị rễ cây che khuất, và nơi sâu của huyệt động tối tăm kia dường như thông thẳng với phần bên trong của tòa cổ thành đúc đầy phù điêu vàng. Mọi người có thể mãi mãi không bao giờ nhìn thấy toàn bộ dung mạo tòa thành Nhện Vàng, ngay cả khi đã lại rất gần, nhưng vẫn cảm nhận rõ ràng độ hùng vĩ đội trời đạp đất của nó. Nó giống như một chiếc tráp thần kỳ nặng hàng triệu tấn, im lìm sừng sững đứng giữa vực thẳm, tuy rằng những bức phù điêu được đúc bằng vàng trông rất xa hoa độc đáo, nhưng vẫn không thể che giấu được sự đơn độc, thê lương nổi trội của nó, và thực không biết nếu bước chân vào trong, thì sẽ còn gặp phải tình huống bất ngờ đến mức nào nữa. Nhưng sương khí bám gót rất nhanh, nên bốn người chẳng kịp nhìn rõ, cũng chẳng kịp suy nghĩ trước sau, cứ liều mạng ôm súng lẻn vào, rồi lập tức đóng chặt cánh cửa lại, cầm đèn pin lên soi, xung quanh vắng tanh không một bóng người, hai bên đều là bức tường đá lạnh lẽo, nhẵn bóng, không hề có vết nứt hay khe hở nào, nơi sâu gió lạnh thổi vi vút, dường như đó là một con đường ngầm, chẳng hiểu nó thông đến nơi nào.
Tư Mã Khôi trút tiếng thở dài, anh thấy bên trong huyệt động quá tối, đèn pin chẳng phát huy được mấy công dụng nên hoàn toàn không nhìn rõ mình đang ở đâu, hơn nữa chiếc đèn chiếu halogen cuối cùng cũng đã hết sạch nhiên liệu, không thể sử dụng được nữa, anh bèn rút một cuộn pháo phát tín hiệu, gấp hai đầu lại, rồi huơ nhẹ trên tay, ánh sáng xanh mờ vụt lóe lên.
Tư Mã Khôi cầm chặt pháo tín hiệu trong tay, mượn ánh sáng yếu ớt của nó ngẩng đầu lên nhìn. Bất chợt anh thấy một bóng đen lay lắt ở đường biên phạm vi chiếu sáng, thoáng nhìn lại tưởng là Tuyệt, bởi vì trên đầu kẻ đó cũng đội chiếc mũ sắt M1 của Mỹ, nhưng rất nhanh sau đó, anh phát hiện thấy ba người bạn đồng hành còn lại lúc này đang ở ngay sau lưng mình. Anh lập tức đề cao cảnh giác, cầm chặt khẩu súng, chăm chú quan sát kỹ, và phát hiện kẻ đó gầy guộc như một nắm xương tàn, cúi đầu ngồi cuộn tròn trong góc tối, chẳng thể nhìn rõ khuôn mặt giấu dưới chiếc mũ sắt, chỉ thấy chiếc áo sơ mi rách mủn như mùn, mình mẩy bẩn thỉu như vừa đi mò hến, trong tay hắn nắm một cuộn pháo phát tín hiệu đã tắt ngấm, bên vai khoác lệch chiếc túi vải buồm quân dụng, ngồi im bất