Đó là một người lính nhảy dù trẻ tuổi, hẳn là anh đã nhảy xuống đây vào nửa đêm qua.
Chiếc dù nhảy bị vướng vào một cây sồi thấp, anh đã chết trước khi kịp rơi xuống đất.
Đạn từ súng máy bắn thủng xương sọ và ngực gần như xé toạc cả người anh.
Một chiếc xương sườn bị gãy đâm qua lớp da thịt bị thiêu cháy.
Nửa bên mặt trái của anh dính đầy máu nhưng vẫn nguyên vẹn, nửa còn lại thì không còn nữa.
Hai đứa bé đứng cách thi thể tầm ba bốn thước, nhìn chằm chằm vào nó hồi lâu.
Sau đó, chúng không hẹn mà cùng xoay người, chạy như bay xuống sườn núi, băng qua cánh đồng hoang để quay về dinh thự.
Bọn chúng kể chuyện này lại cho Martha nghe.
Hôm đó bị cúp điện, Martha phải đạp xe đạp đến đồn cảnh sát.
Một giờ sau, viên cảnh sát mập lái xe hơi chở bà về rồi để hai cậu bé dẫn đường.
Xe không thể lên tận sườn núi nhỏ, Martha không muốn đi, bà cũng cấm Harry và Alex đến gần thi thể mắc trên cây sồi kia, viên cảnh sát mập chỉ đành một mình leo lên đó, vừa đi ông vừa thở hồng hộc, mồ hôi chảy đầm đìa, ông ta không ngừng dùng ống tay áo lau mồ hôi trên trán.
Sau đó bốn người lại chen chúc vào xe cảnh sát, đi đến một bưu điện cách đó hơn năm cây số để tìm một bốt điện thoại còn có thể hoạt động.
Hai cậu bé vô cùng phấn khích bởi những cửa hàng ở đây vẫn còn mở cửa, chúng có thể mua kẹo và kem ly.
Martha mua cho mỗi đứa một túi kẹo chanh nhưng khi bọn nhóc đòi đi xem phim thì bà gạt phắt đi.
"Đây không phải là đi chơi." Bà xụ mặt, dẫn hai đứa về lại xe: "Mau lên, chúng ta cần phải về nhà."
Hai viên cảnh sát đặt thi thể bọc trong tấm bạt về cạnh con đường đá vụn chờ xử lý.
Cuối cùng mọi người đưa ra kết luận, đó là lính nhảy dù của Đức, hoặc cũng có thể là gián điệp, lính trinh sát hay phi công lái máy bay chiến đấu.
Đứa con mười bốn tuổi của người đầu bếp được giao trọng trách đưa tin, nó đạp chiếc xe đạp mượn được, chạy tới chạy lui truyền tin giữa dinh thự và đồn cảnh sát.
Alex và Harry ngồi ở cầu thang ăn kẹo, nhìn mọi người đang tất bật trong sảnh qua những khe hở lan can.
Gần chạng vạng tối thì có bốn người lính xuất hiện, họ đến từ căn cứ không quân hoàng gia cách đây hơn mười cây số, chuyển thi thể cuốn trong tấm vải bạt lên xe tải, sau khi nói mấy câu với Nam tước Loiseau, họ lên xe rời đi.
Đêm xuống nhưng vẫn chưa khôi phục lại mạng lưới điện, tất cả mọi người đều tụ lại cùng ăn tối trong phòng bếp bởi vì ánh sáng không thể rọi xa.
Điểm tệ chính là lò sưởi sẽ không thể tỏa nhiệt và mùi thuốc lá cay nồng cũng không còn.
Những người lớn tranh luận xem bờ biển Cornwall có trở thành mục tiêu tấn công hay không, có người cho rằng ở đây quá xa, không đến nỗi bị tấn công, một số khác lại cho rằng nước Đức sẽ nhắm đến căn cứ hải quân ở gần đây.
Cuối cùng, phương án đó đã thuyết phục được bên còn lại.
Câu trả lời sáng tỏ ngay tối hôm đó, viên đạn đại bác đầu tiên đã rơi xuống vào khoảng hai giờ sáng.
Harry chợt choàng tỉnh, cậu khoác chăn chạy đến bên cửa sổ, leo lên tay vịn ghế.
Ánh lửa lóe lên ở phía đông bắc, chiếu sáng lớp khói mịt mù cuồn cuộn.
Tiếng nổ truyền đến chậm hơn, một tiếng ầm vang trầm trầm, giống như ở dưới nước mà nghe thấy tiếng sấm vậy.
Cửa sổ thủy tinh chấn động, lại một quả cầu lửa khác nổ tung ở phía xa, cậu nhìn thoáng thấy bóng của máy bay chiến đấu, nó ở quá xa, không biết là máy bay của bên nào.
Rồi tiếng đùng đoàng của pháo cao xạ cũng gia nhập vào dàn hợp xướng, một tiếng, hai tiếng, một chiếc máy bay chiến đấu kéo theo làn khói, rơi vào ánh lửa mờ mờ.
Harry không thể thấy kết cục của nó, lúc này cửa phòng đột nhiên bật mở, Martha đang mặc quần áo ngủ vọt vào, bà kéo cậu khỏi cửa sổ, đưa cậu xuống hầm rượu.
Alex đã ở đó từ trước.
Hai đứa bé như hai chú sóc nhỏ giữa mùa đông rúc vào góc giữa hai cái thùng làm bằng gỗ sồi, dùng chăn làm thành một cái ổ.
Vách tường thỉnh thoảng lại rung lên, tiếng nổ ở phía xa sau khi xuyên qua tầng tầng lớp lớp đất đã nhỏ đi nhiều nhưng vẫn có thể nghe rõ.
Bởi vì lạnh, hai đứa bé dựa vào nhau thật gần, nghe tiếng trò chuyện loáng thoáng của người lớn.
Quả nhiên là căn cứ hải quân, đó là tiếng của người đầu bếp, quả nhiên là vậy.
Cú nổ ngay sau đó thật gần, tưởng như ở ngay trên đầu bọn họ, bụi đất rơi xuống, phủ đầy trên cổ và gáy hai cậu bé.
Alex hơi co người lại, hai mắt nhắm chặt.
"Bọn họ sẽ rời đi nhanh thôi." Harry thì thầm: "Không đủ nhiên liệu đâu."
"Sao cậu biết?"
"Tớ và mẹ tớ rất ít khi phải đợi trong hầm trú ẩn quá ba giờ.
Sau đó mẹ tớ không vào hầm trú ẩn nữa, những cuộc công kích trở nên dài hơn, mẹ tớ nói rằng đó là vì bây giờ máy bay của Đức đã có thể cất cánh từ Pháp.
Có một lần lâu nhất là sáu giờ, tớ đoán thế vì tớ đã ngủ mất, trời sáng rồi cảnh sát mới cho bọn tớ ra."
"Tại sao mẹ cậu không vào hầm trú ẩn nữa?"
"Mẹ tớ không thể, mẹ phải lái xe cứu thương cho hội Chữ thập đỏ.
Thật ra đây là công việc của bà Butler ở cạnh nhà tớ, nhưng bà ấy và hai y tá nữa đã bị thương do vụ đánh bom trên phố Condon.
Đó cũng là lý do tại sao mẹ tớ lại gửi tớ đi." Hình ảnh rõ rệt ấy lại hiện lên: Trên chuyến tàu sơ tán, những đứa trẻ với hốc mắt đỏ hoe chen chúc một chỗ, mùi dầu máy và mùi nôn tràn ngập trong toa tàu.
Harry kéo tấm chăn lên, che lấy bả vai.
Alex tựa vào vai Harry, không nói gì nữa.
Hai tiếng nổ liên tiếp nữa lại vang lên, hình như chúng cách xa hơn tiếng lúc nãy, nghe cứ như có con vật khổng lồ nào đó với gai nhọn đầy thân đang lăn lộn trong bùn đất.
Harry nhìn thấy một con nhện xuất hiện giữa khe hở của những viên gạch, những chiếc chân nhỏ dài của nó do dự chạm lên viên gạch, sau đó, giống như nhận ra ánh mắt của Harry, nó nhanh chóng chạy trốn, chui vào trong khe hở của một khúc gỗ rồi biến mất.
Alex khẽ chuyển mình, tóc hắn lướt qua lỗ tai của Harry, hơi nhột một chút.
Không còn ai nói chuyện nữa, người đầu bếp ngồi dưới đất, ông tựa lưng vào thùng rượu, nhắm mắt lại.
Martha thì