Năm Trinh Quán thứ 3 (năm 629 sau Công nguyên), Đường Thái Tông khuyến khích các quan dâng sớ bàn về cái hay dở của việc chính sự. Tướng trung lang Thường Hà tuy không thạo chuyện viết lách nhưng cũng muốn viết một bản tấu theo trào lưu chung, nên đã nhờ một người khách nghèo trong nhà tên là Mã Chu viết hộ hơn 20 chuyện để tấu. Không ngờ cả hơn 20 chuyện đều đánh trúng vào những tiêu cực thời đó, hơn nữa văn phong lại nho nhã, xác đáng, lời văn ý nhị sâu xa.
Khi bản tấu đến tay Đường Thái Tông, trong lúc đang hết lời khen ngợi bỗng nhiên Đường Thái Tông nhận ra một điều kỳ lạ là: Thường Hà là con nhà võ, không thông thạo việc viết lách thì sao có thể viết được một cách tài tình những điều to tát đòi hỏi có tầm nhìn xa trông rộng đến vậy? Vì thế ông quyết hỏi cho ra ngọn ngành. Thường Hà không còn cách nào khác đành phải nói ra việc mình đã nhờ người khác. Đường Thái Tông chẳng những không nghĩ đến việc trách Thường Hà làm chuyện gian dối, mà còn nói: "Mã Chu là một người tài hoa hiếm có" và hạ chỉ cho vào triệu kiến.
Mã Chu vì lý do đó cứ chần chừ không muốn đến, Đường Thái Tông thì sốt ruột không thể chờ thêm nên đã liên tiếp bốn lần sai người đi giục. Cuối cùng thì văn nhân cũng đến gặp Đường Thái Tông. Đường Thái Tông tiếp đãi với một thái độ khiêm tốn chứ tuyệt nhiên không có thái độ kiêu ngạo của một kẻ bề trên.
Sau một hồi trò chuyện thân thiết, Mã Chu được cử ngay đến làm quan ở tỉnh Hạ Môn.
Mã Chu không cần lợi dụng quan hệ hôn nhân câu kết mưa cầu danh lợi để tiến thân, cũng chẳng phải dùng tiền bạc để được ban ơn mà vẫn một bước lên trời. Nhưng báo đền ơn nghĩa cũng là bản tính của một bậc văn nhân nên sau khi đến nhậm chức, Mã Chu quả nhiên đã không phụ công sức của Đường Thái Tông, dốc hết tâm trí, nỗ lực hết sức, cuối cùng làm đến chức trung thư lệnh.
Nếu chỉ nhìn sơ qua thì sự may mắn của Mã Chu trong đường công danh là lạ lùng và ngẫu nhiên. Song thực ra vì sự thái bình của Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn luôn cầu hiền tài, chú ý đến sự xuất hiện của nhân tài nên "nhiệm hiền mà trị" là phương châm chính trị lớn thời đó. Mã Chu là người có tài "phò vua" lại gặp được Đường Thái Tông là người biết trọng dụng nhân tài, hơn nữa lại ở vào thời buổi hiếm nhân tài nên việc gáy một tiếng làm tất cả mọi người kinh ngạc là điều tất nhiên. Ngay từ khi mới lên ngôi, Đường Thái Tông đã ra lệnh cho các đại thần phải tiến cử người hiền tài. Nhưng mấy tháng trôi qua mà không thấy Thượng thư Phong Đức Di tiến cử được người nào. Đường Thái Tông không giấu nổi vẻ sốt ruột muốn tìm hiền tài nên đã nổi giận cách chức Phong Đức Di, chức tể tướng bị bỏ trống. Phong Đức Di đã cố gắng biện giải: "Không phải là hạ thần không gắng sức đi tìm mà quả thực là do thiên hạ thiếu bậc kỳ tài". Đường Thái Tông càng tức giận: "Vậy các bậc quân vương trước đây lôi kéo được người tài là do mượn của các triều đại khác ư? Tự mình không cố sức tìm kiếm nhân tài lại còn đổ cho bao bậc hiền tài trong thiên hạ sao?".
Kế "Cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử" là mưu kế của những người có chí lớn, còn người suốt ngày chỉ sợ người khác đoạt mất vị trí của mình như Phong Đức Di thì sao có thể nghĩ ra và sử dụng được. Nền chính tri của Trinh Quán ngoài "trọng nông dưỡng dân" ra thì nội dung chủ yếu, quan trọng nhất là "nhiệm hiền mà tri", "cầu hiền nhược khát, duy tài thị cử". Vương Bàn Sơn đã từng nói: "Đời nhà Đường có nhiều bề tôi giỏi nhất, kể cả đời Hán trước đó lẫn đời Tống sau này đều không sánh kịp thời kỳ Trinh Quán, Đường Thái Tông luôn tạo điều kiện cho người hiền tài, không kể là quan lại hay dân thường, dù chỉ là người mới biết hay đã biết từ lâu, là người Hán hay người Di, chi cần có tài thì Đường Thái Tông đều cố gắng để lôi kéo được người đó về bên mình. Trong những năm