Sự đông đúc giàu có đời Tùy, sự hùng mạnh của đế quốc Tần đều rất nổi tiếng trong lịch sử. Tuy đều cường thịnh và thịnh hành muôn dặm nhưng cả hai vương triều hùng mạnh đó đều đoản mệnh, chỉ truyền được hai đời vua rồi không xuất đầu lộ diện nữa. Triều vua Đường được xây dựng trên các tàn tích của cuộc chiến tranh nông dân, Lý Thế Dân đã tận mắt chứng kiến việc vương triều Tùy thịnh vượng là thế mà chỉ qua hai đời thì đã tuyệt diệt.
Nên khi Lý Thế Dân lên ngôi năm 626 sau Công nguyên cũng chính là đời vua thứ hai của triều Đường, ông không khỏi lo lắng, sợ sẽ giẫm phải vết xe đổ của Tần Nhị Thế và Tùy Dạng Đế. Vì vậy Đường Thái Tông rất coi trọng việc "lấy lịch sử làm gương". "Dĩ cổ vi kính, khả dĩ tri hưng thế" (lấy đời xưa làm tấm gương, có thể biết được hưng thế) đã trở thành châm ngôn sống của ông. Như vậy, lấy lịch sử làm tấm gương mà soi (dĩ sử vi giám) đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của nền thống trị Trinh Quán Đường Thái Tông.
"Dĩ sử vi giám" nghĩa là rút ra bài học kinh nghiệm từ sự hưng vong của các triều đại trong lịch sử, xem xét hiện thực, so sánh đối chiếu với bản thân, cố gắng lo toan việc trị nước yên dân, xây dựng triều chính sáng suốt tiến bộ. "Dĩ sử vi giám" đương nhiên là bao hàm lịch sử, nhưng Đường Thái Tông chủ yếu chỉ coi Hán là thầy còn Tùy, Tần thì tránh mà trọng điểm là lịch sử Tần, Tùy thông qua việc xem xét những sai lầm đã dẫn đến sự diệt vong của hai triều đại Tần, Tùy để tìm ra phương pháp, con đường đúng đắn thống trị đất nước. Chúng ta khái quát hóa cách làm này thành kế "Cứu quá đắc chính".
Đường Thái Tông đã vận dụng kế "Cứu quá đắc chính" này, tuy rằng rất gian khổ nhưng có thể nói là cũng rất sáng suốt.
Đường Thái Tông vốn là người tinh thông võ nghệ chứ không phải việc văn chương nhưng để có thể làm cho kế "cứu quá đắc chính" đạt được hiệu quả thiết thực thì về sau ông lại trở thành vị hoàng đế ham thích, say mê nói chuyện lịch sử.
Đầu những năm Trinh Quán, Đường Thái Tông nhân những lúc rỗi rãi thường nói chuyện chính sự cùng các quần thần, bàn luận quy luật hưng vong trị loạn từ xưa đến nay. Sử gia Lý Bách Dược đã khen ông "thường xuyên cùng với các bậc nhân sĩ luận bàn các điển tích, đàm luận chuyện văn thơ, thậm chí say sưa đến mức quên cả mệt nhọc, quên cả giờ giấc". Ông thường một mình đọc sách quên cả mệt mỏi đến tận đêm khuya. Đồng thời cũng cho người viết sách sử cho riêng ông. Được sự khuyến khích của Đường Thái Tông, trong những năm Trinh Quán đã biên soạn được các cuốn chính sử như "Bắc Tề thư , "Chu thư", "Lương thư" , "Trần thư" , "Tùy thư" , "Tấn thư" , "Nam sử", "Bắc sử" chiếm đến gần một phần ba trong 25 bộ sử, các quan đại thần nổi tiếng như phòng Huyền Linh, Ngụy Trưng, Trưởng Tôn Vô Kỵ đều là những nòng cốt trong quá trình viết sử. Đường Thái Tông do chịu khó đọc sách và khiêm tốn học hỏi nên có những kiến giải độc đáo có lý, có căn cứ về các sự kiện lịch sử trọng đại đặc biệt là đối với Tần Thủy Hoàng, Tùy Văn Đế, Tùy Dạng Đế.
Xét về sai lầm "ngược đãi dân" của nhà Tùy, Đường Thái Tông đề ra tư tưởng "lấy dân làm gốc". Ông cho rằng nguyên nhân làm cho nhà Tùy bị diệt vong là do trong khi người dân muốn chăm chỉ làm ruộng thì Tùy Dạng Đế lại không ngừng bắt lao dịch, phu phen, nhân dân đã khốn khổ đủ đường rồi mà Tùy Dạng Đế vẫn không ngừng bóc lột để phục vụ cho cuộc sống xa hoa lãng phí của mình. Người làm vua như thuyền, trăm họ là nước, nước có thể đẩy thuyền và cũng có thể lật thuyền. Do đó, muốn dựng nước phải biết dựa vào dân, muốn cho nước giàu thì trước hết phải làm cho dân no đủ. Vì vậy, Đường Thái Tông đã đề ra những chính sách, biện pháp trọng nông, an dân như: Giảm tô thuế, xây dựng các công trình thủy lợi. Nhờ vậy mà kinh tế trong những năm Trinh Quán được khôi phục và phát triển nhanh tới không ngờ.
Tùy Văn Đế là người đa nghi, thậm chí còn nghi ngờ cả thái tử Dương Dũng mưu phản nên đã phế Dương Dũng để lập con thứ vốn là người hoang dâm vô độ - Dương Quảng tức Tùy Dạng Đế. Khi xem xét sai lầm về sự