Theo quan điểm phép biện chứng duy vật, hai mặt của một vấn đề vừa đối lập lại vừa thống nhất với nhau. Ví dụ hiếu thuận và vi nghịch, có lợi và có hại, trước tiên là chúng đối lập nhau, nhưng trong những điều kiện nhất định, hiếu thuận sẽ dẫn đến vi nghịch, có lợi sẽ biến thành có hại. Là một người mưu trí thì trước hết phải xem xét kỹ khả năng chuyển hóa thành mặt đối lập của một sự vật, khi cần thiết phải không do dự vứt bỏ "tiểu hiếu" , "tiểu lợi" thông qua những hành động "vi nghịch" nhỏ, có hại nhỏ để đạt được kết quả là những cái "đại hiếu" , "đại lợi", đó chính là mưu trí "tư đại hiếu bất ngôn tiểu hiếu, đồ đại lợi cảm khí tiểu lợi".
Những chuyện xấu xa trong cung đình triều Đường không ngừng diễn ra nên người ta thường gọi là "Đường điểu quy". Trong các cuộc chiến tranh giành chính quyền đó luôn có liên quan đến đàn bà. Trên thực tế thì những người đàn bà dám nghĩ dám làm trong cung đình nhà Đường đều là những người tài giỏi. Nếu như họ thật sự có khả năng làm chính trị thì đều giống như sự nghiệp rất rầm rộ của Võ Tắc Thiên. Song dưới áp lực mạnh mẽ của tư tưởng phong kiến, những người phụ nữ tài ba ấy đa phần chỉ có đường chết. Điều đáng nói ở đây là Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đã dùng mưu kế với con gái Võ Tắc Thiên là Thái Bình công chúa.
Năm 710 sau Công nguyên, Vi hoàng hậu cùng con gái là An Lạc công chúa, thượng quan Uyển Nhi và những kẻ đồng đảng đã hạ độc Đường Trung Tông, lập con trai của Trung Tông là Lý Trọng Mậu làm hoàng đế, Vi hoàng hậu cũng bắt chước cách Võ Tắc Thiên lâm triều. Con trai Lý Đán - em trai Đường Trung Tông là Lý Long Cơ cùng cô là Thái Bình công chúa đã thừa cơ khởi sự, thanh toán nhóm người Vi Thị. Dưới sự chủ trì của Thái Bình công chúa, phụ vương Lý Long Cơ lên ngôi hoàng đế. Lý Long Cơ vì có công nên cũng vượt qua anh cả và anh hai của mình, được lập làm hoàng thái tử, và đến năm 712 sau Công nguyên thì được kế vị ngai vàng.
Trong cuộc chính biến này phải nói là công lao của Thái Bình công chúa cũng chẳng kém cháu mình Lý Long Cơ là bao nhiêu, nhưng bà cũng chỉ có cơ hội được tham gia bàn luận chuyện triều chính ở đằng sau mà thôi. Trước khi Lý Long Cơ đăng cơ bà cũng bị buộc dời đến Bồ Châu để đề phòng sự can dự vào việc triều chính. Thái Bình công chúa lúc đó đã 40 tuổi, bà cũng đã tìm đủ cách mà không thoát được, chỉ có thể sống trong sự sung túc đó mà lôi kéo những kẻ đồng đảng, tìm cách đưa chúng vào những vị trí quan trọng trong triều để chuẩn bị cho cuộc cách mạng thứ hai.
Đây là nói từ góc độ của Thái Bình công chúa còn nếu theo cách nghĩ của Đường Huyền Tông thì ông ta đã dựa vào công lao để giành lấy xã tắc lại là "dương mưu" thiên kinh đại nghĩa, tiêu diệt thực lực của Thái Bình công chúa cũng là điều tất yếu để phòng cái họa "gà gáy gở, chó lê trôn". Do đó khi thấy Thái Bình công chúa có hành vi "phản nghịch" thì đương nhiên là sẽ không nghe, không tin bà nữa. Nhưng có một điều mà ông ta không thể không lo lắng là: Thái Bình công chúa là em gái ruột duy nhất của phụ thân ông ta, việc có những hành vi vượt quá giới hạn với công chúa đương nhiên sẽ trái ý của thái thượng hoàng và có thể trở thành hành vi "bất hiếu" trong quan niệm đạo đức phong kiến, do đó ông ta không thể có những hành động kiên quyết.
Thế là Vương Cư nhân cơ hội này đi cầu kiến Lý Long Cơ lúc này chưa làm hoàng đế. Vương Cư cố ý chậm bước ở Đông cung, thăm dò xung quanh. Thị vệ Đông Cung thấy vậy lớn tiếng quát. "Điện hạ đang ở đây sao dám như vậy!". Vương Cư nói. "Làm gì có điện hạ nào, chỉ có Thái Bình công chúa mà thôi!". Thái tử vội vàng đến cầu xin dạy bảo. Vương Cư nói: "Ngày đó Vi Thị giết chồng đoạt quyền, lòng người không phục nên thái tử mới được ủng hộ, việc trừ họa không khó. Nhưng nay Thái Bình công chúa ỷ thế có công lại xảo trá đa kế, các đại thần trong triều đa số là tử sĩ của bà ta, lại thêm có quan hệ anh em ruột hoàng thượng, nếu không quyết đoán sẽ khó tránh được đại họa".
Thái tử nói: "Người nói chí phải. Chỉ tiếc rằng hoàng thượng có mỗi người em gái, nếu có điều gì xảy ra thì sẽ phạm vào đạo hiếu nghĩa nên ta không dám hành động tùy tiện".
Vương Cư lại nói. "Tiểu hiếu