Những năm đầu đời Đường là những năm tháng hoàng kim cực kỳ hưng thịnh không chỉ trong đời Đường mà còn cả trong lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc. Theo ghi chép, thời kỳ này của cải dư dật, thiên hạ yên ổn, giá cả ổn định. Người đi đường xa không phải lo mang theo lương thực và binh khí phòng thân, dọc đường vào bất kỳ làng nào cũng đều có quán trọ với đầy đủ rượu thịt tùy ý lựa chọn, lúc sắp rời khỏi quán lại còn được tặng quà. Đại thi nhân Đỗ Phủ trong bài thơ "Ức tích" nhớ về tình hình thời đó viết rằng: "Ức tích Khai Nguyên toàn thịnh nhật, tiểu ấp do tàng vạn gia thất. Đạo mễ lưu chi túc mễ bạch, công tư thương bẩm câu phong thực. Cửu châu đạo lộ vô sài lang, viễn hành bất lao cát nhật xuất. Tề hoàn lỗ cảo xa ban ban, nam canh nữ tang bất tương thất". Quả là thịnh cảnh phồn vinh làm rung động lòng người. Còn các sử gia thì gọi thời kỳ này là "Khai Nguyên thịnh thế".
Thực ra thời kỳ thịnh vượng đó (đầu những năm Cập Thiên Bảo) không chỉ thóc gạo đầy kho, đời sống sung túc mà còn có những nhân vật phong lưu tiếng tăm lẫy lừng trong thời kỳ này. Thi đàn có "thi tiên" Lý Bạch, "thi thánh" Đỗ Phủ là hai ngôi sao sáng, ngoài ra còn có rất nhiều nhà thơ xuất sắc khác như Hạ Tri Chương, Vương Chi Hoán, Vương Xương Linh, Vương Duy... Trong chính đàn có những tài năng tinh thông lại đạo, trị thế như Diêu Sùng, Tống Cảnh, Trương Thuyết, Trương Cửu Linh. Ngoài ra còn có "họa thánh" Ngô Đạo Tử, nhà soạn nhạc Lý Quy Niên, nhà thiên văn học Tăng Nhất Hành... Quả là nhân tài đông đúc như những vì sao xán lạn đây chính là nguồn gốc của sự hưng thịnh buổi Khai Nguyên và cũng là cảnh độc bước thiên hạ của vương triều đại Đường.
Chúng tôi thường cho rằng sự thịnh vượng của thời kỳ Khai Nguyên là kết quả của "chế độ Trinh Quán" do Đường Thái Tông sáng lập và sự kế thừa, phát huy của Đường Cao Tông, Võ Tắc Thiên. Nếu nhìn toàn cục xu hướng phát triển lịch sử thì điều này không sai vì từ sau khi đất nước thống nhất, thiên hạ thái bình, trong giai đoạn gần một trăm năm từ thời Trinh Quán đến thời kỳ Khai Nguyên, về lý mà nói đương nhiên sẽ có kết quả là sự cường thịnh của vương triều đại Đường. Nhưng cũng không thể vì thế mà phủ định rằng nếu không có diệu sách trị quốc của Đường Huyền Tông, vị vua chấp chính thời đó thì không thể có kết quả này. Vì trong lịch sử, hiện tượng "cả một việc lớn chỉ vì thiếu một chút sức người sức của mà không thể hoàn thành" thường xuyên xảy ra.
Trên thực tế, sau "ngũ vương chính biến" lật đổ Võ Tắc Thiên năm 705 sau Công nguyên, chính quyền nhà Đường luôn ở trong tình trạng biến loạn. Đến khi Đường Huyền Tông lên ngôi ông đã phải đối mặt với một tình trạng lộn xộn: Chính biến kéo dài làm lực lượng tập quyền trung ương suy yếu quan viên rườm rà rối rắm, vương công quý tộc kéo bè kết phái. Thêm vào đó là chiến tranh biên giới liên miên, tình hình rất căng thẳng. Cả một vùng Hà Bắc, Long Thạch trở thành nơi bị nhung mã giày xéo, luôn luôn đe dọa sự an toàn của vương triều. Đất đai thôn tính nghiêm trọng, lưu manh vô số tô thuế suy giảm không đủ cho quốc gia dùng. Vương triều nhà Đường rơi vào tình thế rất nghiêm trọng khi mà nguy cơ đầy rẫy, tài chính túng bấn.
Đứng trước tình hình đó, Đường Huyền Tông đã sáng suốt nghĩ đến vấn đề nhân tài, ông rất quyết đoán trong việc dùng kế "lấy nhân làm gốc", mạnh dạn dùng những người có phương pháp trị thế làm tể tướng, tin tưởng những cuộc cách tân triều chính rất mới mẻ, mạnh dạn của họ, nhờ vậy mà thay đổi được chính cục.
Người đầu tiên được Đường Huyền Tông dùng là Diêu Sùng, một người theo chủ nghĩa duy vật. Đây là một chính trị gia tài giỏi, quyết đoán, ngay từ thời Võ Tắc Thiên còn chấp chính đã từng làm Tể tướng, giải quyết được rất nhiều việc quốc gia đại sự và rất có danh tiếng. Đường Huyền Tông Lý Long Cơ đã bỏ qua sự ngăn cản của rất nhiều đại thần, lợi dụng việc đi săn để mật triệu Diêu Sùng đến, mời làm Thượng thư bộ binh để cùng lo việc triều chính. Diêu Sùng trở thành vị Tể tướng đầu tiên của thời kỳ Khai Nguyên, quả không phụ lòng trông đợi, ông xử lý các chuyện đại sự quốc gia một cách rất minh mẫn, lại giỏi việc phân tích và nắm bắt thời cơ, nhanh chóng xóa bỏ các tệ nạn chính trị, tiến hành cải cách hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, quân sự nên được gọi là "cứu thời tể tướng".
Vị Tể tướng thứ hai của thời kỳ Khai Nguyên tiếp sau Diêu Sùng là Tống Cảnh. Tống Cảnh và Diêu Sùng có tác phong chính trị hoàn toàn khác nhau. Diêu Sùng thiên về sự linh hoạt trong ứng biến, là người luôn ôm đồm từ chuyện lớn đến chuyện bé nhưng lại có thể dứt điểm một cách nhanh chóng. Tống Cảnh lại chú ý đến "thủ pháp tri chính", chú trọng đến việc dùng người. Ông là người biết chọn đúng người để dùng, chấp pháp vô tư. Đối với những kẻ quyền thế mà không có tài đức thì ông không bao giờ để ý đến. Trước khi làm Tể tướng, ông mới chỉ là Đô đốc của Quảng Châu, Đường Huyền Tông đã sai hoạn quan Dương Tư Húc đi đón. Mà Dương Tư Húc về quyền thế lúc đó chỉ đứng sau Cao Lực Sĩ, vậy mà trên đường đi phải nhận lấy thái độ lạnh nhạt, không để ý gì của Tống Cảnh. Dương Tư Húc hồi cung lập tức khóc lóc kể tội với Đường Huyền Tông, không ngờ Đường Huyền Tông lại nói người tài như vậy rất hiếm. Sau này mọi lời tấu, tất cả những bài viết của Tống Cảnh đều được coi là cách ngôn. Trong thời kỳ Tống Cảnh làm Tể tướng, trên cơ sở những thành công của Diêu Sùng, ông tiếp tục tiến hành cải cách mạnh dạn những tệ nạn chính trị còn sót lại, mở ra một cục diện mới "thuế khóa lao dịch rộng rãi, hình phạt rõ ràng, dân chúng ấm no" trong những năm đầu Khai Nguyên.
Người đời sau nói về những hiền minh tể tướng đời Đường là. "Trước có Phòng (Phòng Huyền Linh), Đỗ (Đỗ Như Hối), sau có Diêu, Tống, các tể tướng khác