Ngày 9 tháng 11 năm Thiên Bảo Đường Huyền Tông thứ 4 (năm 755 sau Công nguyên), An Lộc Sơn mượn cớ đi dẹp giặc, Dương Quốc Trung đã dẫn hơn 100.000 quân lính và quân đội dân tộc thiểu số, trên danh nghĩa là 200.000 người từ Phạm Dương (Bắc Kinh ngày nay) cấp tốc Nam chinh. Những nơi đại quân đi qua thì đa phần các châu huyện chỉ có cách đầu hàng, hoặc bỏ chạy, hoặc bị giết chứ tuyệt đối không có khả năng kháng cự. Đến tháng 12, An Lộc Sơn đã đến được Linh Xương (phía tây nam huyện Hà Nam ngày nay) lợi dụng nước sông đóng băng vượt qua Hoàng Hà, đánh Trần Lưu, hãm Huỳnh Dương, áp sát Hổ Lao (Tự Thủy - Hà Nam ngày nay).
Đến tận lúc này An Lộc Sơn mới gặp phải sự ngăn cản của 6 vạn quan quân nhà Đường do Phong Thường Thanh dẫn đầu. Nhưng số quan quân đó đều là lính mới chiêu mộ vội vàng, chưa qua huấn luyện thì làm sao chịu được sự tấn công của kỵ binh, Phong Thường Thanh đại bại ở Hổ Lao, ở ngoài thành Lạc Dương và cả ở trong cửa đông của thành Lạc Dương. Dù đã làm mọi cách nhưng cũng phải tháo lui, hợp quân với Cao Tiên Chi ở Thiểm Châu, bỏ lại thành quách, lui giữ Đồng Quan, mưu tính dựa vào thế hiểm để đánh lại, đề phòng yên quân tiến vào Trường An. Đường Huyền Tông lòng dạ như lửa đốt chỉ muốn phản công, tức giận cho chém đầu Phong Trường Thanh và Cao Tiên Chi, hai kẻ dám lui về phía sau tránh giặc. Sau đó sai Ca Thư Hàn đem theo 8 vạn quân đến Đồng Quan để thay thế. Mặt khác hạ lệnh cho các nơi tiến binh, hợp sức tiến công đông đô lạc Dương.
An Lộc Sơn vốn định từ Lạc Dương tiến công luôn Đồng Quan để có thể chiếm ngay Tây kinh Trường An, lật đổ nhà Đường. Không ngờ quân dân Hà Bắc, dưới sự lôi kéo của Nhan Cảo Khanh, Nhan Chân Khanh đã đứng dậy phản kháng, thanh thế to lớn, cắt đứt liên lạc giữa yên quân Lạc Dương với lão sào Phạm Dương. Thêm vào đó hai đại tướng Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi kịp thời dẫn quân ra khỏi Tỉnh Kinh, liên lạc với quân dân Hà Bắc, đe dọa nghiêm trọng yên quân. An Lộc Sơn đành phải rút về Lạc Dương để sắp xếp lại phái mãnh tướng Sư Tư Minh quay lại cứu Hà Bắc, lệnh cho con trai là An Khánh Tư tấn công chiếm Đồng Quan. Tiếc rằng quân dân Hà Bắc nhất là hai danh tướng Lý Quang Bật, Quách Tử Nghi là những người túc trí đa mưư, anh dũng thiện chiến nên Sử Tư Minh liên tiếp bại trận. Ca Thư Hàn thì dựa vào địa thế hiểm yếu của Đồng Quan cố thủ không ra nên yên quân không có cách nào tiến về phía tây. Nhà Đường cuối cùng cũng ổn định được thế trận, có cơ hội điều binh lực ưu thế để tiêu diệt địch. An Lộc Sơn phía trước bị chặn bởi Đồng Quan, phía sau thì không có đường về, tuy đã vội vàng lên ngôi hoàng đế Đại Yến ở Lạc Dương nhưng trên thực tế thì đã mất hết tự tin, chẳng làm gì được nữa.
Không ngờ vào lúc An Lộc Sơn đang ngày đêm lo lắng như vậy thì Đường Huyền Tông vì muốn nhanh chóng dẹp loạn nghe theo tin tức tình báo phiến diện của Lương Quốc Trung hạ lệnh cho Ca Thư Hàn nhanh chóng ra khỏi Đồng Quan vào tiêu diệt yên quân. Ca Thư Hàn đành phải bỏ thế hiểm yếu đó để mạo hiểm tiến công. Hơn 100.000 binh sĩ nhà Đường mất mạng bởi mai phục của yên quân. Bức tường ngăn cách Trường An bỗng dưng lại rơi vào tay phiến quân.
Đồng Quan thất thủ, Trường An rối loạn. Đường Huyền Tông vì không kìm nén được cơn giận, nóng vội muốn dẹp phản, giờ đây mất hết nhuệ khí, chỉ mang theo được chị em Dương Quý phi cùng các hoàng tôn run rẩy thừa lúc đêm khuya trấn khỏi Trường An chạy về phía Tây Thục. Tháng 6 năm 765 sau Công nguyên, An Lộc Sơn lại dễ dàng chiếm được Tây kinh Trường An. Đây chính là điểm mấu chốt khiến nhà Đường từ đỉnh cao cường thịnh rơi xuống vực sâu suy bại - giai đoạn đầu tiên của "An - Sử chi loạn".
Mọi người không kìm được câu hỏi: Đế quốc đại Đường đang ở vào giai đoạn cường thịnh nhất, tuy triều chính đã bắt đầu suy bại nhưng với 80 vạn hùng binh, hàng loạt các tướng lĩnh trung thành sẵn sàng xả thân nơi chiến trường vì hoàng thất, và với đất đai rộng lớn nhất trong lịch sử cùng tài nguyên chiến lược vô biên như vậy thì chỉ với một An Lộc Sơn nhỏ bé tính tình xảo trá nhưng không đủ mạnh mẽ để mưu trí lớn, tuy có trong tay gần 20 vạn quân nhưng vẫn không bằng một phần tư quân Đường, hơn nữa kẻ làm phản đó lại không được lòng người thì tại sao có thể chỉ trong chớp mắt đã đánh chiếm được hai kinh đô nhà Đường, buộc Đường Huyền Tông phải bỏ chạy như vậy? Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do An Lộc Sơn đã vận dụng thành công mưu kế "Giả dương hành âm, thừa sơ kích giải".
Kẻ địch mà phòng bị lơ là lỏng lẻo tất sẽ dẫn đến tư tưởng tê liệt ý chí chiến đấu rời rạc, chỉ huy bất lực, hiệp đồng không tốt, phản ứng chậm chạp, chiến đấu yếu ớt. "Thừa sơ kích giải" tức là nhân lúc kẻ địch không ngờ tới để tấn công mạnh mẽ, làm cho chúng không kịp trở tay, thần trí rối loạn, mất khả năng kháng cự. Nhưng thông thường thì kẻ địch ít khi tê liệt, lỏng lẻo. Do đó trước khi tấn công mạnh mẽ luôn phải thông qua "giả dương hành âm" để mê hoặc kẻ địch, làm chúng tê liệt, còn mình thì nuôi dưỡng chí khí. "Dương" là công khai, bao lộ, "âm" là ngụy trang, ẩn nấp. "Giả dương hành âm" tức là dùng hành động công khai để che giấu những hành vi, ý đồ kín đáo.
Trước khi An Lộc Sơn tiến công, ông ta đã phải dùng một khoảng thời gian mất 10 năm để thực hiện kế "giả dương hành âm". "Giả dương" của An Lộc Sơn là giả vờ tỏ ra thật thà, thẳng thắng, trung thành, để giành được lòng tin của Đường Huyền Tông, để rồi Đường Huyền Tông không hề có sự phòng bị gì với ông ta. Năm 743 sau Công nguyên An Lộc Sơn đã làm tới chức Binh Lư Tiết độ sứ, mỗi lần vào triều thường được Đường Huyền Tông tiếp kiến và có những ưu đãi đặc biệt. Ông ta đã thừa cơ dâng tấu: "Năm ngoái cả một vùng Doanh Châu bị sâu bọ tàn phá hoa màu thần đã thắp hương khấn trời: "Nếu thần không ngay thẳng, chính trực, không trung thành với quân vương thì nguyện làm thức ăn cho sâu bọ, nếu không thì xin hãy đuổi hết lũ sâu bọ đi". Thần vừa khấn xong thì ngay lập tức từng đàn từng đàn chim từ phương Bắc sà xuống, lũ sâu bọ không con nào thoát chết cả. Qua đó có thể thấy chỉ cần tấm lòng thành của vi thần thì ông trời nhất định sẽ phù hộ. Do đó nên viết chuyện này vào sử sách".
Một lời nói dối vốn rất nực cười nhưng vì An Lộc Sơn rất giỏi xu nịnh nên Đường Huyền Tông lại tin là thật và càng cho là ông ta thật thà chân chất. An Lộc Sơn là người dân tộc thiểu số lai Đông Bắc, ông ta thường nói với Đường Huyền Tông: "Thần là kẻ ngoại tộc, may được hưởng hoàng ân, được hoàng thượng sủng ái, tự thấy hổ thẹn vì mình ngu xuẩn, không đủ tài đức đảm nhận, chỉ có tấm thân sẵn sàng tử vì nước để báo đền hoàng ân". Đường Huyền Tông rất đỗi vui mừng. Một lần đúng lúc có hoàng thái tử ở đó, Đường Huyền Tông lệnh cho hoàng thái tử gặp An, An cố ý không bái kiến. Thị vệ trước điện quát hỏi: "An Lộc Sơn gặp điện hạ sao không bái?". An giả vờ kinh ngạc: "Điện hạ là ai?". Đường Huyền Tông mỉm cười: "Điện hạ tức là hoàng thái tử". An trả lời: "Hạ thần không biết lễ nghi trong triều, thế hoàng thái tử là quan gì?". Đường Huyền Tông cười phá lên: "Sau 100 năm nữa người lên ngôi hoàng đế kế vị trẫm thì gọi là hoàng thái tử". Lúc này An Lộc Sơn mới giả bộ như mới tỉnh ngộ ra: "Ngu thần chỉ biết có bệ hạ, không biết có hoàng thái tử, tội đáng muôn chết". Đồng thời bái lạy hoàng thái tử. Đường Huyền Tông lại cảm thấy ông ta "thật thà, chất phác" hết lời khen ngợi.
Vào một ngày năm 747 sau Công nguyên, Huyền Tông mở tiệc An Lộc