Trên bàn cờ lẫn lộn quân trắng quân đen, quân trắng có phần chiếm ưu thế. Hàn Bình thay Lý Ngọc Sơn cầm quân đen, cân nhắc trong chốc lát rồi đặt xuống.
Ôn Chỉ sững sờ trợn mắt nhìn nơi y hạ cờ, phát hiện ra quần cờ đã đặt ngay chỗ yếu hại của mình, không khỏi kinh hãi. Mà Lý Ngọc Sơn đứng cạnh càng cảm thán, "Nước đi này của Hàn tiên sinh quả thật bất phàm, quả nhiên con mắt tinh tường hơn học sinh nhiều lắm." Hắn lắc đầu tự giễu, "Nhớ lúc trước lão sư từng nói, con người ta phân chia cao thấp đều dựa vào cái mắt nhìn. Kẻ đứng dưới chân núi thì chỉ thấy được vài tấc đất. Người đứng trên sườn núi thì thấy được làng xóm, còn người đứng trên đỉnh núi, dõi mắt về phía xa thì bao quát cả thiên hạ. Về tài đánh cờ mà nói, học sinh chỉ là tiều phu dưới chân núi, Hàn tiên sinh lại là tiên nhân trên đỉnh núi, khiến người ta ngưỡng mộ."
Ôn Chỉ cũng gật đầu, "Hàn tiên sinh đâu chỉ kỳ nghệ cao siêu, mà mắt nhìn thế cục cũng thấy rõ." Hắn hạ quân cờ, nói tiếp, "Từ chuyện ở Việt Châu, lúc bàn chính sách chẩn tai, ta vẫn còn do dự. Dù sao số lương thực cấp phát hàng tháng chỉ đủ cho dân đói cầm cự qua ngày chứ chẳng thể giúp họ ăn no. Sau này ta mới hiểu, hóa ra tất cả những việc này đều đã có tính toán từ trước. Chỉ phát đủ lương để họ không chết đói, chứ không giúp họ sống thoải mái. Dân đói mà được cho ăn no thì sẽ không chịu xuống sông đào kêu thông dòng, khai khẩn ruộng hoang, trồng trọt lương thực cho mùa màng năm sau. Chỉ khi bọn họ chăm chỉ lao động thì mới có được thu hoạch mà nuôi sống bản thân."
"Cho nên chính sách phân phát cứu trợ lần này hết sức vẹn toàn." Lý Ngọc Sơn không khỏi cảm khái.
Hàn Bình lại lắc đầu, "Lần chẩn tai này đều nhờ Công Tôn Đồng dự báo chính xác, kho lúa lại đủ lương thực nên mới lo liệu được thỏa đáng. Nếu khó khăn kéo dài liên tục mấy năm thì kho lương cũng cạn kiệt, không cứu trợ được nữa. Khi ấy, dù ta có giỏi tính toán đến đâu cũng rơi vào cảnh khốn cùng mà thôi."
Ôn Chỉ hạ tiếp một quân cờ, đăm chiêu nói, "Vậy theo Hàn tiên sinh, nếu năm sau lại tiếp tục mất mùa thì phải đối phó sao đây?"
"Nếu là tai họa của cả nước thì phải xem ý người cầm quyền." Hàn Bình lặng lẽ hạ cờ, "Người làm đế vương đương nhiên có lúc phải lựa chọn giữa giữ hay bỏ, chỉ khác nhau ở cách thức giữ và cách thức bỏ mà thôi."
"Trong đợt đại hạn nhiều năm trước, Hiếu Tông cùng bách quan đến Đông Đô tị nạn, bách tính trong quan nội hầu hết phải lưu vong, người chết vô số kể. Cuối cùng, ngay cả một cọng cỏ cũng chẳng còn, xác chết nằm đầy đồng. Đến khi Hiếu Tông từ Đông Đô quay về Kiến An, thống kê lại nhân khẩu thì chỉ còn một nửa. Việc này đều do triều đình xử lý không tốt, dẫn đến thảm họa. Cho tới nay, Hiếu Tông vẫn luôn bị người đời lên án."
Việc này ai ai cũng biết, đều lặng lẽ gật đầu.
"Có một chuyện khác các ngươi chưa từng nghe. Vào năm Thái Tông Kiến Nguyên, Đại Chiêu lúc ấy mới khai triều được hơn mười năm, quan trung gặp hạn hán liên tục ba mùa xuân, kho lương trong các châu huyện đều trống rỗng. Thấy cảnh khốn khó không thể tránh được, Thái Tông sai người thống kê lương thực khắp nơi. Ngài biết dù có mở kho lúa trong toàn toàn thiên hạ cũng chỉ đủ để cứu trợ cho dân đói trong vòng ba tháng. Mà ba tháng sau đó là mùa đông, đến khi ấy chẳng ai sống qua nổi. Cho nên lúc ấy, Thái Tông hoàng đế ra quyết định." Hàn Bình thở ra, chậm rãi nói, "Ngài sai người đóng chặt thương môn, không phát lấy một hạt thóc."
Mọi người sống lưng thẳng tắp, nín lặng lắng nghe.
"Từ hè sang thu, khó khăn càng thêm nghiêm trọng, lan khắp hai mươi sáu châu tại quan trung, thậm chí còn kéo dài đến tận đô thành Kiến An. Thảm kịch chết đói, người ăn thịt lẫn nhai lại lần nữa tiếp diễn. Các ngự sử liên tục viết tấu sớ, khóc đến đổ lệ, nhưng Thái Tông hoàng đế vẫn ở trong cung, kiên quyết không gặp. Lúc đầu, một số nơi còn phát cháo cứu tế, nhưng sau đó cũng không cầm cự nổi, mau chóng kết thúc. Đến cuối tháng mười, nửa số nạn dân đã chết đói. Nhưng ngay sau đó, khi mùa đông bắt đầu, Thái Tông đột nhiên hạ chỉ, lệnh cho khắp các châu huyện vắt kiệt kho lương cứu trợ dân chúng. Thậm chí ngay cả đồ ăn trong cung cũng giảm bớt một nửa để phát cho dân đói lưu lạc tới đô thành. Lúc ấy, đại học sĩ Minh Tu đã viết trong bút ký rằng, ngày mở kho lương cứu tế, vô số lưu dân từ khắp nơi đổ về, bưng bát lương thực dâng lên trời cao mà hô 'Cảm tạ ân đức của thánh thiên tử', lệ chảy hai hàng."
Nói tới đây, y lại nhìn mọi người, khẽ thở dài, "Cùng là một nửa dân chúng chết đói, nhưng Thái Tông hoàng đế được gọi là Thánh thiên tử, còn Hiếu Tông lại bị người đời cười chê. Cái cao siêu của Thái Tông chính ở chỗ hiểu được lòng người."
Ôn Chỉ ngồi đối diện y khẽ run lên. Xưa nay hắn nghe chuyện Thái Tông thì đều là những truyền thuyết quang minh lỗi lạc, chưa từng nghĩ người như Thái Tông hoàng đế cũng cất chứa những mưu ma chước quỷ trong lòng.
Lý Ngọc Sơn cũng bị câu chuyện này khiến cho kinh hãi, liền hỏi, "Thái Tông hoàng đế được gọi là Minh quân thiên cổ. Nếu ngay cả ngài ấy cũng làm những việc như thế thì đế vương hiện tại rốt cuộc là cái giống gì?"
Hàn Bình một lần nữa nhấc quân cờ, lắc đầu nói, "Cổ nhân có câu, kẻ thánh nhân mà bất nhân thì coi bách tính như heo chó. Theo ta thì đế vương hiện giờ không coi bách tính như heo chó, mà xem bách tính như cá thịt."
"Cá thịt?" Có người kinh hãi thốt lên.
"Không sai. Bạo quân thu sưu cao thuế nặng là để ăn chơi bằng mồ hôi nước mắt của dân. Minh quân thì nhân lúc quốc thái dân an thu sưu cao thuế nặng là củng cố nền móng, khiến đời sau được hưởng nhiều thịnh vượng hơn." Hàn Bình nhìn đám văn nhân trẻ tuổi, khẽ cười, "Đạo lý này tuy rằng nghe hơi tàn nhẫn, nhưng trong các ngươi nhất định có người trở thành danh thần quốc sĩ. Trước lúc đó, vẫn nên hiểu rõ đạo vua."
Bầu không khí tĩnh lặng thật lâu, dường như chỉ còn tiếng gió tuyết mơ hồ ngoài ô cửa. Sau đó lại có tiếng quần áo sột soạt. Dương Diễm đứng dậy khỏi ghế chủ tọa, bước xuống thấp giọng nói, "Các vị còn chưa chơi cờ xong à?"
Ôn Chỉ bỗng nhiên bừng tỉnh, lo lắng nhìn bàn cờ, "Ta thật sự không phải đối thủ của Hàn tiên sinh, ván cờ này không cần chơi tiếp nữa." Hắn quay đầu nhìn sắc trời nên ngoài, "Không còn sớm, chúng ta nên cáo từ thôi."
Khi mọi người lần lượt rời đi, Dương Diễm mới mò mẫn ngồi xuống đối diện Hàn Bình. Y vươn tay, cầm một quân cờ đen, vuốt ve một hồi lâu mới cười nói, "Lan Úc đi đúng lúc lắm. Để ngài đi thêm bước nữa thì không còn cách nào lật ngược ván cờ."
Hàn Bình kinh ngạc nhướn mày, "Công tử làm cách nào biết cục diện bàn cờ?"
"Ban nãy khi các vị chơi cờ, Lưu Thích Đồng sợ ta buồn nên tường thuật lại cho ta nghe. Ta ngẫm nghĩ trong lòng, nhận ra ngài có cơ hội thắng Lan Úc ngay từ đầu nhưng vẫn rất thận trọng, dần dần đẩy hắn vào đường cùng mới xuống tay." Dương Diễm mỉm cười, "Quả nhiên ngài tính toán rất cẩn thận, không cho ai một cơ hội nào."
Hàn Bình Cũng cười, im lặng một lát rồi bỗng than nhẹ, "Ta vẫn còn nhớ như in lần đầu trông thấy công tử ở trong phủ."
"Ta cũng nhớ rõ." Dương Diễm gật đầu, "Khi ấy tiên sinh hỏi ta, thân là công tử trong vương phủ, sau này có muốn kế nhiệm vương vị, trở thành Mục vương không?"
"Không sai, chuyện này ta cũng từng hỏi tam công tử Dương Quyết. Khi ấy hắn kiên quyết nói nếu không thành Mục vương thì sống trên đời này chẳng còn ý nghĩa gì nữa."
Dương Diễm bình tĩnh nói, "Tam ca có dã tâm lớn, quả sẽ nói lời này."
"Nhưng điều khiến ta giật mình hơn hết là câu trả lời của công tử." Hàn Bình khép hờ hai mắt, hình ảnh đứa trẻ gầy gò năm xưa lại hiện ra trong tâm trí. Khi ấy trông y vẫn giống một kẻ nhát gan, vô dụng, hai mắt lại mù lòa.
"Ta hỏi lại tiên sinh, thân là đệ tử của Vô Nhai tể tướng, sau này có muốn trở thành Vô Nhai tể tướng thứ hai