THẢ BOSS RA CHĂN.
Muốn tường tận cách liên lạc bí mật chỉ lưu truyền trong hội hoà thượng đủ mọi lứa tuổi của chùa Thượng Vân thì phải kể từ thời đám tiền bối ưa lang thang khắp chốn nếm trải đời người, hở ra lại diễn màn thích thì mất tích kia cơ.
Chùa Thượng Vân xưa nay thừa mứa nhất là các kiểu hoà thượng có gu lạ, hễ cái chơi chiêu lạc đàn, dăm năm không thấy tung tích vẫn còn nhẹ đấy.
Từng có vị lão tổ trăm năm vắng bóng, các đệ tử khổ đau tìm mãi chẳng được, trăm năm sau cụ cả mới lần mò quay lại, cười kể mình nhập thế làm quan, bò từ chức huyện lệnh cỏn con đến thừa tướng đầu triều, gánh gồng ba đời, sau thấy hòm hòm rồi bèn “tạ thế” để thoát thân mà về.
Lại còn trụ trì kỳ nào đấy lên chức xong nổi cơn muốn thu thập đệ tử độc lạ, ra đi biền biệt, năm nao cũng có người cầm tín vật của ông sang chùa bảo mình được nhận làm đệ tử.
Tuy chẳng trăm năm nhưng ngót nghét cũng bảy tám chục.
Buổi ấy cõi tu chân ngập ngụa việc này chuyện nọ, trụ trì vắng mặt thành thử nhiều sụ vụ chẳng ai lo, cuối cùng nhóm hoà thượng bị đủ loại tu sĩ vào chùa vời họ chủ trì công đạo làm phiền đến nỗi phải phong toả cả núi, đóng cửa không tiếp khách.
Từ đấy Thượng Vân mới mang danh không màng thế tục, ngày càng nổi tiếng.
Tóm lại cũng do nhóm hoà thượng này cứ mất tích mãi, lúc cần kíp lại chẳng thấy đâu, về sau chùa Thượng Vân mới nảy ra một cách.
Cụ thể như nào thì Giang Trừng không rõ, song hoà thượng lịch luyện bên ngoài có thể tra được vị trí của từng người trong chùa, trừ khi bị chặn.
Các đệ tử đáng tin cậy thỉnh thoảng được phép chặn tin, nhưng những nhân vật quan trọng thì không, ví như Thanh Đăng đại sư hằng năm phải về trấn tháp Trấn Ma và suối nước nóng, để một người có trí nhớ kém như chàng không quên việc thì đệ tử Thượng Vân sẽ phải nhắc chừng mỗi khi đến dịp.
Ấy là hành động xâm phạm đời tư, thường nếu không có việc quan trọng phải nhờ đến vị lão tổ Thượng Vân này thì các đệ tử cũng chẳng điều tra tung tích của chàng làm gì.
Như Giang Trừng mỗi bận gửi thư cho đại sư đều đưa thẳng đến chùa, nếu Thanh Đăng ở đấy thì xong, khỏi vẽ thêm chuyện.
Nhỡ chàng vắng mặt, phải nhờ các hoà thượng gửi hộ khi gặp chàng.
Đã quyết định tự đi tìm thì cô không phiền người ta gửi thư báo trước nữa, việc Giang Trừng cần làm bây giờ là tìm một hoà thượng Thượng Vân rồi nhờ cậu ta định vị Thanh Đăng, sau đó dắt con đến thẳng đấy thôi.
Thanh Đăng đại sư khó tìm nhưng các hoà thượng khác thì cực dễ, dẫu sao Thượng Vân cũng đông đảo đệ tử, đa số tốt tính thiện lương.
Mấy năm nay hoạ rối ma vẫn chưa dứt điểm, ngày càng nhiều người chết, mà hễ nơi đâu nhiều người chết, nơi ấy ắt có đệ tử Thượng Vân.
Quyết định rồi Giang Trừng bèn dắt Hạch Đào Nhỏ và rồng trắng đến tử giới gần nhất.
Ba năm không rời nhà, Giang Trừng vừa thấy tử giới xám đen treo giữa trời, trùm lấy cả vùng đất rộng bên dưới là lại thảng thốt.
Tử giới bành trướng âm thầm, mới đầu mọi người đinh ninh rằng chẳng có gì nguy hiểm, song nay vấn đề cứ liên tục xuất hiện.
Ví như thực vật những nơi bị tử giới bao phủ sẽ từ từ khô héo, cả vùng hoang tàn không một mống cỏ, động vật chết thành đàn, ai mà ở lâu sẽ mắc bệnh lạ, cơ thể quắt queo như xác sống.
Tử giới như một chiếc gương, dần dà hoá đất đai tươi tốt thành ‘cõi chết’ như chính nó.
Nếu xem cõi tu chân là một con người thì tử giới như da thịt rữa nát trên cơ thể người nọ.
Rất nhiều môn phái tu chân nức tiếng nghề y đã phái đệ tử đến tử giới tìm hiểu ngọn nguồn, nhị sư huynh Yến Phù Tô của Giang Trừng cũng từng nghiên cứu thử, cuối cùng cả thảy kết luận rằng mọi sự là do một chất gì đấy thuộc tử giới mà ra, Giang Trừng thì nghĩ tử giới có tia bức xạ, chính thứ này khiến vạn vật chết chóc biến dị.
Còn đám rối ma nan giải kia nhiều khi lại đến từ tử giới, có điều đến tận bây giờ vẫn chưa ai tìm ra kẻ tạo nên bọn chúng.
Hiện thời các khu lân cận tử giới đã vắng bóng con người, còn mỗi tu sĩ các phái ở lại hòng tìm cách khống chế sự bành trướng của nó.
Mà cũng chỉ có các tu sĩ mới biết cách dùng linh khí hộ thân để giảm ảnh hưởng của tử giới lên cơ thể mình.
Nhưng tử giới ngày càng rộng và nhiều, đất sống của loài người dần dà thu hẹp lại, thường xuyên gặp cảnh nạn dân da dẻ khô vàng tái mét tha phương đất khách.
Bọn họ buộc phải xa lìa quê cha đất tổ và ruộng vườn chính tay cày cấy, rất nhiều người chết trên đường di cư.
So với ba năm trước, ngày nay càng khủng khiếp hơn.
Giang Trừng vẫn luôn trú lại Dung Trần, thi thoảng mới nghe các đệ tử kháo nhau tình hình ngoài đây, cô biết không ít chuyện nhưng đâu ngờ mọi thứ lại khốc liệt nhường này, tử giới thay hình đổi dạng quá nhanh, cũng ảnh hưởng cực cùng đến người thường.
Cưỡi kiếm giữa trời, Giang Trừng dõi ra xa, trông thấy rất rõ vạt tử giới đen đúa ngoài kia, không khí xung quanh đầy những bụi đen, sương xám mịt mùng, những nơi bị tử giới phủ lên, cả ánh nắng cũng chẳng xuyên qua nổi.
Nhìn xuống lại bắt gặp một toán lưu dân áo quần lam lũ dọc con đường đất, trong nhóm cũng có trẻ nít cỡ tuổi Hạch Đào Nhỏ, các bé vàng vọt gầy còm, hai má hốc hác, đến tiếng khóc cũng như hụt hơi.
Sau lưng đoàn người đầy những xác chết bị vứt lại, chim ăn thịt thối kết bầy, cắn xé đến độ diện mạo chẳng còn, ruột gan phơi cả.
Hạch Đào Nhỏ được Giang Trừng bế trong lòng bỗng siết chặt cổ cô, cặp mắt đen láy chăm chăm nhìn đoàn người lầm lũi tiến bước bên dưới.
Nếu có thể thì Giang Trừng không bao giờ muốn để con mình trông thấy cảnh tượng bi ai thảm thiết nhường kia, song con đã phải sống giữa cõi này, cô đâu thể để nó mãi là công chúa bé bỏng núp trong chiếc ổ an lành, cô mong con đủ can đảm kiên cường đối mặt với tất thảy.
Cô dám hy sinh bản thân để bảo vệ con, cũng mong con thừa sức bảo vệ chính nó.
“Hạch Đào Nhỏ, con sợ cảnh này hả?” Giang Trừng xoa gương mặt nhỏ nhắn đang nép sát vào ngực mình, buông lời.
Hạch Đào Nhỏ vẫn đau đáu nhìn các nạn dân tàn tạ, bé lắc đầu, rầu rĩ, “… Không vui.”
Bé rất thông minh, song từ nhỏ đã sống giữa cõi tiên như Dung Trần sơn phái, tiếp xúc với toàn tu sĩ sạch sẽ tinh tươm, ngày ngày được bề trên yêu thương, đến khi chứng kiến một thế giới hoàn toàn khác, dẫu có khôn lanh hơn nữa vẫn sẽ hoang mang lúng túng.
Đến một vùng đất mới, có vui thú, cũng có phiền muộn.
Hạch Đào Nhỏ không giỏi diễn tả tâm trạng của bé, nhưng Giang Trừng hiểu ý con mình.
Cô bèn xoa đầu con, dỗ: “Mẹ từng bảo con rằng ngoài này có rất nhiều người lầm than, như họ đây, mất nhà, không có thức ăn, cạn sạch hy vọng, thế mới bất hạnh.
Giờ Hạch Đào Nhỏ có biết mình rất sung sướng chưa?”
“Dạ.” Hạch Đào Nhỏ ngoan ngoãn đáp.
Giang Trừng: “Mẹ chưa kể với Hạch Đào Nhỏ nhỉ, mẹ may mắn cực kỳ.
Thuở vừa đến đây mẹ đã gặp cha con ngay, nhận vô vàn ơn nghĩa của cha, mẹ mới hạnh phúc đủ đầy như vậy, chăm bẵm Hạch Đào Nhỏ tốt đến thế.
Nếu không gặp cha con, có khi mẹ là một trong số