Thời gian nhanh chóng lùi lại từ khoảnh khắc người buông mình nơi tán đào ngọc chống trời xuống lòng chàng.
***
Khi cõi Trời núi Linh hãy còn chưa có cô bé Chước Chước ấy, Thanh Đăng Chân Phật vẫn là tôn Thần Phật vạn năm đắm chìm giữa sự huyền diệu của Phật pháp, hiếm khi rời ngọn Tiểu Linh, y như các tôn Thần Phật khác.
Một hôm chẳng có gì đặc biệt, Thanh Đăng Chân Phật cảm nhận kiếp số của mình sắp đến.
Kiếp số của Thần Phật thường sẽ gian nan hơn kiếp số của Thần Quân, song chúng lại chưa từng là nguồn cơn phiền muộn của Thần Phật.
Thanh Đăng chưa bao giờ mang tâm tình phải lịch kiếp khi rời núi Linh, chàng chỉ bình thản như mọi ngày.
Song khi chàng thức giấc trên đỉnh núi tiên, trông thấy gốc đào chớm hoá linh kia, cõi lòng điềm nhiên ấy rốt đã rung động.
Như gió chực ùa về, như nghe tiếng hoa đào nở rộ.
Từ lần đầu gặp mặt, Thanh Đăng Chân Phật biết kiếp số của mình đến rồi.
Sau đó, giúp nàng hoá linh thành tiên, đưa nàng về Tiểu Linh, yêu thương dạy dỗ.
Thanh Đăng chưa từng tra xét rốt ráo xem tâm tình ấy là sao, nhưng chàng biết sinh linh này là sự tồn tại gần gũi nhất trên đời.
Bởi do kiếp số của chàng mà nàng mới xuất hiện.
Chước Chước khác với vạn vật trên thế gian, sự đặc biệt ấy bắt nguồn từ cõi lòng chàng.
Thần Phật không có tơ tình, song lòng chàng đã yêu, tơ tình mới bén rễ.
Thanh Đăng đương nhiên thấu tỏ tình ý Chước Chước dành cho mình, vừa nhìn đã thấy, dẫu nàng không nói, đôi mắt quán triệt tất thảy của chàng vẫn trông rõ mười mươi.
Cuộc đời đằng đẵng của Thần Phật khiến mọi thứ đều trở nên chậm rãi, thời gian dai dẳng dằng dặc chỉ như ngày hôm qua đối với Thanh Đăng.
Chước Chước của hôm qua hãy còn là cô bé trườn trên đầu gối chàng nghịch rùa, ưa vặt lá bổn thể của chàng mà chơi, hôm nay đã trở thành một cô gái dũng cảm, có trách nhiệm rồi.
Trong khoảnh khắc, mây trên núi Linh hãy chưa trôi trọn một vòng, cô bé Chước Chước phải ngước nhìn mới nắm được tay chàng đã lớn khôn đến độ vùi được đầu mình vào ngực chàng.
Nhanh tựa hoa cỏ dưới trần, nở bừng sau đêm, mùa hoa ngắn ngủi.
Những điều tuyệt đẹp khiến người ta lưu luyến thường sẽ trôi đi rất nhanh, không kịp theo đuổi, thậm chí khiến lòng chúng ta bàng hoàng bối rối.
Tâm cảnh của Thần Phật luôn dừng ở mức bình tĩnh nhất, bởi trên đời không còn thứ gì khiến lòng họ dao động được nữa.
Song chẳng biết tự khi nào, Thanh Đăng nhận ra mình đã thay đổi.
Thần Phật cõi Trời, cũng phải thoả hiệp với chữ “tình”.
Ví như sự ghen tuông, vui mừng, có được hoặc mất đi, hoan hỉ hay bi thương thường thấy của chữ tình này, chừng khi ý thức được, đã tự mình nếm trải.
Thanh Đăng Chân Phật chưa từng do dự chần chừ hay suy tính hơn thiệt, với Chước Chước, lòng chàng chỉ một chữ “buông không đặng” mà thôi.
Khi khát vọng nảy nở trong lòng, Thần Phật phải xuống trần lịch bảy kiếp tình, kiếp thiện ác, như vòng tuần hoàn gạt bỏ những thứ dư thừa.
Với chàng, Chước Chước là kiếp bản tâm, mà bản tâm lại là kiếp số lớn nhất.
So với nó, tất cả các kiếp số còn lại nhỏ nhoi vô cùng, đây cũng là sự khác biệt giữa việc lịch kiếp của Thần Phật và Thần Quân.
Kiếp số của Thần Phật muôn hình vạn trạng, cũng chỉ có đem thân ra chiêm nghiệm mới biết đâu là kiếp số của mình.
Chước Chước đâu hay những điều này, thế mới ngu ngơ theo xuống trần giúp chàng lịch kiếp.
Tuy lúc lịch kiếp Thanh Đăng không nhớ nổi nàng, song vẫn vô thức quan tâm đến nàng.
Buông không đặng, dẫu đã quên, vẫn không đành xuôi tay.
Cho nên sau này, về núi Linh rồi, chàng vẫn đi tìm nàng.
Vẫn câu nói ấy, nơi ký ức không tồn tại hình bóng kia nhưng trong lòng mãi luôn có nàng.
Thay tên, đổi tướng, mất trí nhớ, Thanh Đăng vẫn không chối từ nổi.
Giúp Chước Chước lịch kiếp, chính Thanh Đăng cũng đang lịch kiếp bản tâm.
Kiếp số trước vẫn chưa kết thúc, tất cả gói gọn vào đời này.
Chưa vượt tình kiếp, tơ tình bất động, mọi tình nghĩa trước kia tạm bị phong ấn lại.
Chưa qua kiếp thiện ác, ác niệm trong lòng chưa tan, bèn hoá thành một “bản ngã” khác.
Chưa xong kiếp bản tâm, nên mới gặp Giang Trừng.
Ban sơ buông không đặng, đưa cô về Thượng Vân tự, khử sát khí, nâng tư chất, tìm nơi ở cho cô, đưa cô đến Xuất Trần sơn phái, nhờ người ta chăm sóc hộ.
Sau này buông không đặng, sang thăm lúc bế quan, đi cứu khi gặp nạn.
Duyên trời run rủi, nuốt đoá hoa kết bằng tơ tình bị tước ra nơi ba kiếp trước, ký ức và nỗi nhớ nhung còn đọng của ba kiếp ấy họp lại thành một “bản ngã” khác.
Đoá hoa tình kết bằng tơ hồng dần dà thức tỉnh tơ tình đã đang phong ấn.
Từ đấy nước chảy về đông, xuôi dòng thành biển.
Năm ấy Giang Trừng hoài thai, Thanh Đăng hãy còn một mình dấn bước nơi bão tuyết đất Bắc, ngước lên nhìn sông ngân nhạt nhoà, chỉ lấp lánh hai ngôi sao Mẫu Tử, bên tai chừng vang vọng giọng ai xưa cũ.
“Mình mà có con thì đứa bé ấy chắc chắn sẽ rất phiền… Một con quỷ nghịch ngợm sẽ vẽ rùa lên mặt chàng ấy!”
Thanh Đăng đơn độc giữa chốn mênh mang, chợt cảm thấy gió tuyết khoác lên người mình dịu dàng ấm áp.
Chàng rẽ ngược về Dung Trần sơn phái dưới nam, vừa đi vừa xin gạo nghìn nhà, nguyện cho con mình được bình an hạnh phúc, theo một tập tục xưa.
Người nọ buông lơi mái tóc, gương mặt mơ màng hơi khác trước, cong cong ánh mắt ngồi tựa nghiêng vào tấm chăn xếp cao, nhón chiếc chuông nhỏ trêu đứa bé trên giường.
Đứa bé kia mày sắc mắt lạnh, hất văng chuông đi.
Xem chừng khó tính thật.
“Ôi chao, khó tính à nha ~” Thanh Đăng nghe Giang Trừng nói thế, giọng đầy vui vẻ, lòng ngập yêu thương.
Sau đó, chàng thỉnh thoảng sẽ sang thăm, có điều Giang Trừng không biết.
Khi thì gặp cảnh một lớn một bé châu đầu gà gật, lúc lại chứng kiến đứa lớn buộc dây dắt đứa bé đi dạo quanh các ngọn núi.
Trong khi chàng đôn đáo khắp nơi vì thiên kiếp sắp tới, hai mẹ con lại thảnh thơi qua ngày như thế.
Giang Trừng không bỏ bê tu luyện bao giờ, song khác với mọi người, cô không dành hết thời gian cho việc tu luyện, cô tự biết cách sắp xếp giờ giấc, sống rất tự do.
Yêu thương một người, biết người đó sống thoải mái an nhàn, chẳng còn gì tốt đẹp hơn thế nữa.
Giang Trừng đưa con đến thăm chàng, Thanh Đăng ngạc nhiên, song vô cùng vui vẻ.
Đứa bé ấy không vẽ rùa lên mặt chàng, mà là vẽ những thứ khác.
Thanh Đăng thất thần lan man nhớ lại, chẳng hay mình đã nghe câu nói này lúc nào, rồi lại bị tràng cười bất chợt cắt ngang, Giang Trừng vừa hỉ hả vừa đập đầu vào tường, Thanh Đăng nhìn mà buồn cười.
Chàng cười thật, gọi cả tên Giang Trừng nữa.
Chẳng hiểu sao Giang Trừng bỗng dưng lại ngừng, giả vờ điềm nhiên.
Chắc cô sợ, cơ mà thực ra chàng đâu có ý cấm cản gì.
Thanh Đăng đồ rằng cô lại biên ra chuyện chi đấy rồi tự doạ mình, bèn chẳng phân bua.
Giang Trừng giống y như Hạch Đào Nhỏ vậy, đều còn bé quá.
Bé thì sức sống tràn trề, tốt mà.
Khi người ta không đành buông ai đấy, lòng sẽ hoài nhớ nhung.
Thanh Đăng không tương tư quá nhiều, chỉ nhớ cô sau mỗi buổi kinh vãn chiều hôm.
Cuối cùng, thiên kiếp đến, không thoát nổi.
Giữa nghiệp hoả vô biên, Thanh Đăng đón lấy cái nhìn trước khi chết của Giang Trừng, chàng hẳn không trông thấy rõ, song ánh mắt ấy giống hệt ánh mắt Chước Chước dõi về ngọn Tiểu Linh trước khi xuống trần lịch kiếp, ý nghĩa chan chứa như nhau, thành ra chàng cảm nhận được.
Chính nỗi niềm buông không đặng sau chót khiến chàng hoá thành Phật quang phổ độ, giúp người ấy vượt kiếp cứu thế này.
Mất đi thân xác, ký ức thuộc về Thanh Đăng Chân Phật lại được giở ra, sáng trong như cũ.
Không gì có thể ngăn cản kiếp bản tâm luân hồi trăm kiếp nữa.
***
Năm chàng quay về thế giới này, Hạch Đào Nhỏ từng vẽ mày thô trên mặt chàng đã lớn, cao hơn cơ thể hiện thời của chàng những nửa cái đầu.
Con ngơ ngác bế Giang Trừng bảy tuổi, đôi tay cầm kiếm vững vàng nay đang run bần bật.
Giang Trừng ngồi trong lòng con bụm miệng cười rúc rích, sau rốt lại nện đấm lên vai con, bị con xốc thẳng lên lưng mà cõng.
“Cha có cần con cõng không?” Con gái lớn rồi lạnh băng từ trên ngó xuống chàng, giọng hơi sượng.
“Không cần đâu.” Thanh Đăng ngước lên nhìn con gái, đáp.
Giang Trừng đong đưa chân sau lưng con, chẳng lạ lẫm gì sau trăm năm không gặp, điềm nhiên mà rằng: “Thanh Đăng, chàng cũng lên đây đi ~ Hạch Đào Nhỏ khoẻ lắm ~ Có