Cáp Tát Nhĩ nhíu mày, không đón lấy chiếc diều và cũng không nói gì c3ả.
Tên lính liên lạc liếc nhìn y, lại đổ mồ hôi nói, “Chiếc 2diều này không chỉ có hình thù kỳ quái mà thuộc hạ còn thấy ký hiệu 0và chữ viết trên đó cũng rất kỳ lạ… E là tín hiệu mà quân địch truyề0n cho nhau nên mới cố ý dâng lên cho điện hạ.”
Cáp Tát Nhĩ đ3ang chìm trong dòng suy tư, mấy tướng lĩnh trong lều chủ soái đều đang chờ y, y vốn không hứng thú quan sát con diều đó, nhưng kết quả lại bị hình thù kỳ quái của chiếc diều hấp dẫn.
Y khẽ ừ một tiếc, nâng tay lên, mở con diều ra.
Nhưng chỉ liếc nhìn một cái thôi mà cả người y đã ngây ra.
Trên chiếc diều không phải là hoa văn gì xa lạ mà chính là hình vẽ của nửa khối ngọc bội y đã đưa cho Lý Mạc. Ban đầu khối ngọc được chia làm hai, ở giữa có khắc chữ “Duyên” (缘). Lúc ở A Ba Ca, khi Lý Mạc khăng khăng rời đi, y đã đem nửa khối ngọc vốn thuộc về mình cho nàng, chỉ để lại nửa khối ngọc của nàng. Mà hoa văn này, chính là hoa văn thuộc về nửa khối ngọc bội trên người Lý Mạc.
“Mạc Nhi...”
Y lẩm bẩm một mình rồi tiếp tục lật chiếc diều lên xem, chỉ thấy bên trên có viết.
“Canh ba trưa nay, miếu thổ địa cách sườn núi ba dặm, đưa đầu tới gặp.”
Dòng chữ nhỏ tinh tế, sinh động lưu loát như mây bay nước chảy, xinh đẹp mà đoan trang thanh tú lại có thần, bên trong lại mang nét hùng hồn phóng khoáng, không chỉ là sự dịu dàng tỉ mỉ của nữ giới mà còn mang nét cứng cáp tuấn dật của nam tử.
Cáp Tát Nhĩ và Lý Mạc yêu nhau đã ba năm rồi trải qua mấy năm chia lìa, mặc dù những ngày tháng bên nhau đã trôi qua rất lâu rồi nhưng y vẫn nhớ rất rõ nét chữ của Lý Mạc, chỉ cần nhìn một chút là y đã khẳng định đây là chữ do chính tay nàng viết chứ không phải do ai khác mô phỏng theo.
Là nàng, nhất định là Mạc Nhi!
Đôi môi mím chặt của Cáp Tát Nhĩ chậm rãi mở ra, chiếc khuyên tai trên tai trái của y ánh lên ánh sáng rực rỡ rất khác biệt, giống như càng thêm tô điểm cho đôi mắt màu hổ phách của y, cũng giống như vì y mà rót vào một sức sống mới mẻ.
Nhìn dòng chữ “đưa đầu tới gặp”, trái tim y không ngừng loạn nhịp, giống như nhận được lời hẹn gặp gỡ dưới trăng đầy âu yếm của thiếu nữ, kích động tới nỗi trái tim loạn nhịp, máu huyết chảy ngược, gương mặt quanh năm suốt tháng lúc nào cũng âm trầm đầy tử khí cũng biến mất, toàn thân y nhất thời trở nên sinh động hơn hẳn.
Y biết, Lý Mạc không thực sự muốn lấy đầu của mình.
Như vậy, lời nói muốn lấy đầu y của nàng chắc chắn chỉ có một lý do thôi… Nàng đang trêu đùa y.
Trêu đùa, đối với một người đang trông mong tình yêu trong vô vọng như Cáp Tát Nhĩ mà nói thì không thể nghi ngờ gì nữa, đó là tín hiệu vô cùng mãnh liệt… rằng bọn họ có hy vọng hòa hợp. Cho dù hy vọng ấy của y có yếu ớt như đốm lửa nhỏ trong bóng tối thì cũng đủ khiến nội tâm y trở nên ấm áp, khiến y không thể không đi.
Lòng y như có lửa đốt, không có cách nào tiếp tục chuẩn bị cho chiến tranh được nữa.
Y muốn đi, y phải đi, đi ngay lập tức!
Cố gắng ổn định tâm tình trong lòng mình, gương mặt y không hề đổi sắc, xếp gọn lại chiếc diều rồi giống như đang nâng niu một món trân bảo tuyệt thế, y giao nó cho Hồ Hòa Lỗ, dặn dò gã cất đi cẩn thận rồi mới hắng giọng, nhìn đám tướng tá không hiểu chân tướng sự tình và trầm giọng phân phó.
“Chư vị tướng quân, mười lăm vạn quân Bắc Địch chúng ta đóng quân ở đây chính là vì một ngày này. Đối với Bắc Địch ta mà nói, cuộc chiến ở Cư Dung Quan này không chỉ là cuộc chiến bảo vệ liên minh mà còn là một trận đại chiến liên quan tới cả giang sơn xã tắc và thiên thu vạn đại. Tất cả phải hành sự theo kế hoạch, tướng tá không được phép dối gạt chỉ huy, tất cả đều phải nắm toàn cục trong tay...”
Nói đến đây, ánh mắt y lại càng thêm nghiêm túc.
“Nhỡ rõ, bất luận kẻ địch có mê hoặc thế nào cũng không được phân binh, không được để kẻ địch có cơ hội lợi dụng. Điểm yếu của quân Tấn là ít người, chúng ta phải tập trung binh lực thì sẽ có phần thắng.”
Nhìn sắc mặt lúc khẩn trương, khi thì vô cùng lo lắng, lúc sau lại thả lỏng, rồi một lát lại hưng phấn kích động của y,
tướng lĩnh trong lều hoàn toàn không hiểu trên con diều đó có viết thứ gì mà khiến thái tử của bọn họ tự nhiên giống như trúng tà như vậy. Nhưng nghe xong lời căn dặn của y, đám tướng tá liền liếc nhìn nhau, không bận tâm tới điều đó nữa.
Không được chia quân, cẩn thận từng bước một, lời phân phó này y đã nói mấy lần rồi.
Từ góc độ của họ, có lẽ là bởi trong trận ở cửa ải Lư Long lần trước, Cáp Tát Nhĩ bại dưới tay Triệu Tôn nên trong lòng y mới có bóng ma sợ hãi lớn như vậy, y trở nên cẩn trọng dè dặt hơn, không còn giống như Chiến thần Bắc Địch ngày nào nữa.
Đám tướng quân nhìn nhau, một gã có gương mặt hơi gầy, trên lông mày có vết sẹo bước ra khỏi hàng, chắp tay nói, “Thái tử điện hạ, theo ta thấy thì không cần phải khẩn trương như vậy. Triệu Tôn có bao nhiêu binh lính chứ? Bĩnh sĩ thủ thành ở Cư Dung Quan có bao nhiêu người? Dù chúng ta không chi viện thì Phó Tông Nguyên cũng không thể thua được. Cho dù không thắng thì chí ít cũng vẫn có thể đánh ngang tay. Giờ có thêm viện quân của chúng ta là thành ba mươi vạn quân, đối phó với mười vạn quân của Triệu Tôn, mỗi người chỉ cần đạp một cái thôi là cũng có thể giết chết hắn luôn rồi...”
“Thối lắm!”
Cáp Tát Nhĩ lạnh mặt nhìn gã, y khẽ híp mắt một cái, hừ lạnh, tầm mắt quét một vòng qua đám tướng lĩnh đang khinh địch, giọng nói nghiêm nghị như băng:
“Nếu dám ôm suy nghĩ như vậy ra chiến trường thì các ngươi viết di chúc trước đi.”
Bình thường, con người Cáp Tát Nhĩ không hề thô tục, y bất ngờ mắng một câu như vậy khiến gã tướng quân đang khoe khoang khoác lác kia lập tức toát đầy mồ hôi lưng, sắc mặt hết đen lại trắng y như màu chiến bào trên người, gã vội vàng quỳ xuống dập đầu trên nền đất.
“Mạt tướng lỗ mãng, xin thái tử điện hạ thứ tội!”
Hừ một tiếng, Cáp Tát Nhĩ không cho gã đứng dậy mà trực tiếp đi qua bên cạnh gã.
“Các ngươi tiếp tục chuẩn bị cho cuộc chiến! Bổn cung có việc, rời đi một lát.”
Có vết xe đổ của gã, những người khác tuy vẫn khinh thường nhưng tất cả vẫn đáp lời y.
“Vâng, điện hạ!”
“Thề sống chết bảo vệ cho Cư Dung Quan!”
“Không!” Cáp Tát Nhĩ chợt dừng bước, nhìn bọn họ, chậm rãi mỉm cười, “Không phải là thề bảo vệ cho Cư Dung Quan, mà là thề sống chết phải tiêu diệt quân Tấn của Triệu Tôn. Chư vị nhớ kĩ, Triệu Tôn mới là kẻ địch lớn nhất của Bắc Địch ta!”
Hiện nay, hai đại Chiến thần trên thế gian này, Nam có Triệu Tôn, Bắc có Cáp Tát Nhĩ, nếu không có quân Tấn của Triệu Tôn thì còn ai có thể ngăn được bước tiến xuôi Nam của Cáp Tát Nhĩ nữa chứ? Tướng lĩnh Bắc Địch thầm nghĩ trong lòng như vậy, cảnh tượng kỵ binh Bắc Địch xuôi Nam báo thù ấy không ngừng toát ra ngọn lửa nhiệt huyết hừng hực thiêu đốt trong đầu bọn họ, kích động vạn phần.
“Mạt tướng tuân mệnh!”
…
Trong chư vị thần tiên trên trời thì Thổ địa công công có bậc thấp nhất, nhưng người lại có ảnh hưởng lớn nhất trong lòng quần chúng nhân dân, hầu như thôn làng nào cũng thờ phụng bài vị của ông.
Ba dặm ngoài sườn núi quả thực có một miếu thổ địa, trên cánh cửa nhỏ được xây từ gạch than có treo một câu đối cũ kĩ loang lổ.
“Thổ năng sinh vạn vật, địa khả phát thiên tường.*”
(*) Thổ nhưỡng có thể sinh vạn vật, đất có thể ban phát ra phước lành.
Nơi này cách doanh trại đóng quân của Bắc Địch không xa, thuộc phạm vi quản lý của người Bắc Địch, hơn nữa việc tới gặp Lý Mạc là chuyện tư nên Cáp Tát Nhĩ chỉ dẫn theo Hồ Hòa Lỗ và một thị vệ tên là Trát Kha.