Hai công tử họ Lâu đã cho Trương Thiết Tý năm trăm lạng bạc để Trương tạ ơn ân nhân. Trương ra đi để lại trong nhà cái bị da trong đấy có một cái đầu người. Mặc dầu họ là người nhà quan tể tướng không có việc gì phải lo sợ, nhưng khi thấy một cái đầu người đầy máu me ở ngoài thềm thì họ cũng không khỏi lo lắng. Lâu Toản nói với anh:
- Trương Thiết Tý là một tay hiệp khách, chắc chắn ông ta không thất tín với chúng ta đâu. Chúng ta không nên làm như thể tục. Chúng ta cứ dọn một bữa tiệc, mời tất cả các bạn thân nhất, đợi ông ta đến mở cái bị kia ra. Có phải dễ dàng gì mà ngày nào cũng thấy đầu người biến thành nước? Tại sao chúng ta không tổ chức làm một bữa "tiệc đầu người"?
Lâu Bổng nghe vậy bằng lòng? Trời vừa sáng, y ra lệnh dọn một bữa tiệc, mời Ngưu Bố Y, Trần Hòa Phủ, Cừ Dật Phu đến. Cố nhiên ba người khách ở trong nhà cũng được mời. Hai công tử nói:
- Đây là một bữa cơm xoàng!
Họ không nói vì sao lại mời ăn tiệc để cho những người khách kia ngạc nhiên hơn khi thấy Trương Thiết Tý trổ tài.
Mấy người khách đều đến và nói chuyện suông suốt ba bốn giờ. Nhưng mãi đến trưa vẫn không thấy Trương Thiết Tý trổ tài.
Lâu Bổng thì thầm với em:
- Việc này xem ra không hay rồi!
Bị da của ông ta vẫn còn đây. Nhất định thế nào ông ta cũng lại!
Họ đợi mãi đến chiều nhưng Trương vẫn không lại. Bữa tiệc đã dọn xong. Họ mời khách cùng ngồi vào ăn. Hôm ấy trời lại nóng, cái bị da bắt đầu bốc ra hơi thối. Hai công tử nóng ruột tự nghĩ:
- Nếu như hắn không đến thì còn cái đầu ở ngoài thềm làm sao bây giờ?
Đợi mãi đến chiều, hơi thối bốc ra. Các bà vợ ngửi thấy mùi thối không chịu nổi sai người đến nhờ hai công tử ra xem một chút. Hai người không biết làm thế nào, đành bảo mở bị ra nhìn thì chẳng thấy đầu người đâu cả. Chỉ thấy một cái đầu lợn nặng năm, sáu cân. Hai người nhìn nhau không nói một lời. Liền ra lệnh đem thủ lợn xuống bếp cho đầy tớ ăn. Hai người bàn nhỏ với nhau đừng đem việc này nói cho ai biết và trở lại tiếp khách như thường. Trong lòng đang buồn rầu thì có người giữ cổng vào bẩm:
- Có sai nhân huyện Ô Trình mang thiếp của quan huyện đến đây. Hắn lại mang thêm hai sai nhân ở huyện Tiêu Sơn đến muốn thưa chuyện với ông.
Lâu Bổng nói:
- Lạ thật! Có việc gì vậy?
Lâu Bổng để Lâu Toản ngồi tiếp khách, còn mình thì ra nhà khách, bảo đưa sai nhân vào. Người này đến vái chào và nói:
- Quan huyện chúng tôi có lời hỏi thăm ngài. Sai nhân đưa ra một tờ công văn. Lâu Bổng sai đem đèn nến đến. Tờ công văn viết:
Tri huyện Ngô, ở huyện Tiêu Sơn báo về việc bắt cóc. Theo lời của thầy tăng chùa Lan Nhược là Tuệ Viễn thì người ni cô trong chùa là Tâm Viễn đã bị một tên côn đồ là Quyền Vật Dụng quyến rũ và bắt về nhà. Trước khi việc lộ ra tên này đã chạy trốn đến quý huyện. Vì vậy, tôi gửi giấy này đến quý huyện xét và nhờ quý huyện giúp bọn sai nha của tôi để tìm xem tên phạm nhân hiện nay trốn ở đâu đặng bắt về huyện tôi xét xử. Việc gấp.
Lâu Bổng đọc xong. Người sai nhân nói:
- Quan huyện chúng tôi muốn bẩm với ngài rằng quan tôi biết tên ấy hiện nay đang ở trong quý phủ. Vì ngài không biết việc làm của hắn cho nên ngài cho hắn ở tại phủ. Quan tôi xin ngài giao hắn cho những người sai nhân hiện đang đợi ở ngoài cửa để giải hắn đi. Nếu hắn biết việc này thì sẽ bỏ trốn, khó lòng mà trả lời với quan huyện Tiêu Sơn.
Lâu Bổng nói:
- Ta biết rồi! Hãy đợi một chút.
Sai nhân vâng dạ bước ra đứng đợi ở ngoài cổng.
Lâu Bổng trong lòng hết sức buồn bực, gọi Lâu Toản và Dương Chấp Trung đến, đưa công văn và giấy của huyện đòi bắt Quyền Vật Dụng. Lâu Toản cũng không biết làm sao. Dương Chấp Trung nói:
- Ông Ba, ông Tư! Người xưa có câu: "Con ong đã vào ống tay áo thì phải cởi ra mà giũ nó đi". Nay ông ta đã làm việc ấy thì dù hai công tử có che chở cũng không được. Tôi xin đến nói thẳng với ông ta và giao ông ta cho bọn sai nhân để ông ta lo liệu với họ.
Hai người không biết làm sao. Dương Chấp Trung bước vào thư phòng, nói sơ qua việc này với những người ăn tiệc. Quyền Vật Dụng đỏ mặt nói:
- Sự thật là sự thật! Giả dối là giả dối! Tôi cứ đi với họ, sợ cái quái gì?
Hai công tử tiễn Quyền ra cửa, vẫn đối xử như một thượng khách và tỏ ý bất bình về việc xảy ra. Sau khi uống hai chén rượu tiễn biệt và đưa cho Quyền hai gói bạc làm tiền đi đường, hai công tử tiễn y ra cổng, bảo một người nhà mang hành lý, rồi vái chào từ biệt. Sai nhân vừa thấy Quyền ra khỏi phủ, lập tức giữ chặt lấy và xích tay lại.
Sau hai việc này, hai người chán nản. Họ ra lệnh cho người giữ cửa hễ có người lạ đến thì bảo họ đã lên kinh rồi. Từ đó trở đi, họ đóng cửa, chỉ lo việc nhà 1.
° ° °
Vài ngày sau, Cừ Dật Phu đến cáo từ hai cậu trở về, nói rằng thái thú mắc bệnh nên phải về Gia Hưng chăm sóc. Hai công tử nghe vậy cũng đều về Gia Hưng với Cừ Dật Phu. Nhưng về đến Gia Hưng thì thái thú đã mắc bệnh nặng lắm, xem chừng không sống nổi. Thái thú bảo Cừ Dật Phu nhờ hai cậu thu xếp để đưa Lỗ tiểu thư về nhà. Hai công tử viết thư sai một người đầy tớ gái đến bẩm với Lỗ phủ. Lỗ phu nhân không chịu nhưng tiểu thư hiểu đạo làm vợ nên xin phép mẹ về nhà chồng để chăm sóc thuốc thang. Bây giờ Thái Tần đã lấy chồng, chỉ còn Song Hồng cùng đi với tiểu thư, mang tất cả của hồi môn xuống thuyền. Khi đến nhà thì nghe tin thái thú đã chết và Cừ Dật Phu đã được lập làm thừa tự. Tiểu thư chăm sóc mẹ chồng và lo lắng việc nhà đâu vào đấu. Thân thích ai cũng khen ngợi. Hai công tử ở lại đến khi chôn cất xong mới trở về Hồ Châu.
Cừ Dật Phu chịu tang ba năm. Cừ nhận thấy hai ông cậu của mình suốt đời lo tìm kiếm người tài nhưng cuối cùng hoàn toàn thất vọng cho nên lòng hiếu danh của Cừ cũng do đó mà nguội lạnh. Y không in thơ để biếu ai nữa. Sau khi đoạn tang, con trai của Lỗ tiểu thư đã được bốn tuổi. Ngày nào tiểu thư cũng dạy cho đứa con học "Tứ thư" và "Văn bát cổ". Cừ Dật Phu ở bên cạnh dạy bảo thêm. Cừ cũng nghĩ đến việc giao du với những người khoa cử ở Gia Hưng, nhưng tất cả những người này cho rằng Cừ là một nhà thơ có danh cho nên không đến gần. Cừ cũng cảm thấy buồn. Một hôm, Cừ đang đi chơi ngoài phố, thì thấy một hiệu sách ngoài cửa dán một tờ giấy đỏ, ở trên viết:
"Hiệu chúng tôi đã mời ông Mã Thuần Thượng người ở Xử Châu tuyển giúp những bài văn đi thi. Ai có những bài văn cho chúng tôi mượn xin làm ơn gửi đến hiệu sách Văn Hải Lâu ở đường phố chính, phủ Gia Hưng".
Cừ nghĩ bụng:
- Ông này là một tay tuyển văn, tại sao ta không đến thăm một chút?
Bèn vội vàng về nhà, thay quần áo, viết một cái thiếp và đưa đến hiệu sách. Cừ hỏi:
- Ở đây có ông Mã không?
Người chủ hiệu sách nói:
- Ông Mã ở trên gác.
Và gọi lớn:
- Ông Mã! Có khách đến thăm.
Ở trên gác có tiếng đáp:
- Tôi sẽ xuống ngay!
Mã ở trên gác bước xuống. Cừ nhìn thấy Mã người cao tám thước, rất to lớn, đầu đội mũ vuông, mình mặc áo màu lam, chân đi giày đen đế trắng, da mặt đen xạm, râu thưa. Hai người vái chào nhau và mời nhau ngồi. Mã Thuần Thượng nhìn thấy tờ danh thiếp nói:
- Tôi đã thấy quý danh trong nhiều bài thơ. Tôi mong được gặp ông đã lâu.
Cừ Dật Phu nói:
- Hiện nay ông làm văn tuyển thật là một tay cự phách về văn chương. Tôi mong mỏi từ lâu. Tiếc không được gặp sớm hơn!
Người chủ hiệu sách mang trà vào. Cừ Dật Phu nói:
- Có phải ông thi đỗ ở Xử Châu không? Chắc ông đỗ cao lắm.
- Tôi thi đỗ ở Xử Châu, đã hai mươi bốn năm nay. Tôi được các quan chấm thi cho đỗ đầu sáu, bảy lần ở phủ, nhưng lên thi ở tỉnh mãi vẫn không đỗ.
- Đó chẳng qua là số phận. Chắc chắn lần sau ông sẽ đỗ khôi nguyên.
Nói chuyện một lát, Cừ cáo từ ra về. Mã Thuần Thượng hỏi chỗ ở của Cừ để ngày hôm sau đến thăm. Cừ về nói với vợ:
- Ngày mai có ông Mã Thuần Thượng đến chơi. Ông ta là một người thạo về văn chương cử nghiệp, phải chuẩn bị làm cơm cho ông ta ăn!
Tiểu thư vui vẻ chuẩn bị cơm nước. Sáng hôm sau Mã Thuần Thượng mặc áo, viết một cái danh thiếp rồi đến nhà Cừ Dật Phu. Cừ Dật Phu nói:
- Chúng ta không phải là hạng bạn bè tầm thường. Tâm hồn chúng ta gặp nhau từ lâu. Hôm nay ông đã hạ cố đến đây. Chắc ông cũng vui lòng ăn cơm với tôi. Tôi đã sửa soạn một bữa cơm thường, xin ông tha thứ cho việc thất lễ.
Mã Thuần Thượng rất mừng rõ. Cừ Dật Phu hỏi: - Khi ông chọn các bài văn thì ông theo những tiêu chuẩn gì?
- Theo lý pháp 2 là chính. Phong cách thì thay đổi luôn. Nhưng lý pháp thì vẫn không thay đổi gì. Thời Hồng Vũ và Vĩnh Lạc, theo phong cách khác, đến thời Thành Hoá và Hoằng Trị lại theo một phong cách khác. Nhưng nếu ta xem kỹ thì cách lý pháp vẫn là một. Nói chung không nên viết văn chương như văn chú thích. Nhưng viết như văn thơ phú lại càng phải tránh. Bởi vì viết như văn chú thích thì chỉ kém về hình thức mà thôi, còn nếu viết như thơ, phú thì trái với khẩu khí của thánh hiền. Cho nên lại càng phải tránh lối văn thơ, phú.
- Viết văn thì như thế, còn phê vào các bài văn thì như thế nào?
- Cũng như vậy cả! Hoàn toàn không có khẩu khí của thơ phú. Tôi đã đọc nhiều lời phê của các vị tiền bối. Khi nào lời văn có vẻ "phong hoa tuyết nguyệt" 3 làm cho người sau tưởng như là thơ, phú thì tức là có hại cho tâm thuật. Người xưa có câu rất hay:
"Lòng người viết văn cũng như con mắt vậy". Con mắt người ta không thể có bụi bậm gì hết, dù bụi bậm ấy là ngọc hay là vàng cũng không được. Vì vậy khi nào tôi chú thích hay phê bình văn chương, tôi lấy tinh thần của Chu Hy ở trong "Ngữ Loại", "Hoặc Vấn". Tôi thường ngồi mãi đến nửa đêm không dám viết một câu. Tôi muốn người đọc một chương của tôi có thể hiểu được đạo lý của mười mấy chương khác. Như thế mới có ích. Khi nào làm tuyển tập xong tôi sẽ gửi một quyển đến nhờ ông chỉ giáo.
Hai người nói chuyện thì cơm đã dọn ra. Đó là một bữa cơm thường. Có một bát vịt hầm, một bát gà nấu, một con cá, một bát thịt lợn bung. Mã Thuần Thượng là người ăn khoẻ. Vừa giơ đũa vừa nói với Cừ Dật Phu:
- Chúng ta là những người bạn thân gặp nhau, không cần làm khách. Con cá này thì chưa cần ăn đến. Chúng ta hãy ăn bát thịt trước.
Mã liền ăn ngay bốn bát cơm và ăn hết sạch cả bát thịt. Ở trong nhà biết vậy lại đưa ra một bát khác. Mã cũng ăn hết cả thịt cả nước. Sau đó, người nhà dọn dẹp và bưng trà lên. Hai người bắt đầu nói chuyện. Mã nói:
- Ông tài năng như thế, lại là con nhà danh tiếng. Đáng lẽ ông phải thi đỗ đã lâu rồi. Tại sao vẫn cứ nằm một xó ở đây như thế?
Cừ Dật Phu nói:
- Vì phụ thân tôi mất sớm. Ông tôi nói tôi phải lo việc nhà. Cho nên không có thì giờ lo đến việc khoa cử.
Mã nói:
- Thế là sai! Hai chữ cử nghiệp là việc từ xưa đến nay ai cũng phải làm. Khổng Phu Tử sống vào thời Xuân Thu bấy giờ làm quan là căn cứ vào lời nói và việc làm tốt. Cho nên Khổng Tử nói: "Nói ít điều sai, làm ít điều phải thẹn, lộc là ở đó". Đó là lối "cử nghiệp" ở thời Khổng Tử đấy. Đời chiến quốc lấy việc du thuyết để làm quan. Cho nên Mạnh Tử đi khắp Tề, Lương. Đó là lối "cử nghiệp" của thời Mạnh Tử. Đời Hán thi "Hiền lương phương chính" nhờ vậy Công Tôn Hoằng, Đổng Trọng Thư đều đỗ. "Hiền lương phương chính" là lối "cử nghiệp" đời Hán. Đời Đường, lấy thi phú để ra làm quan. Nếu có ai nói giỏi như Khổng Tử hay Mạnh Tử thì cũng chịu ngồi xó thôi. Cho nên những người đời Đường đều biết làm thơ. Đó là lối "cử nghiệp" đời Đường. Đời Tống, lấy "lý học" để chọn người làm quan cho nên Trình, Chu đều giảng lý học. Đó là lối "cử nghiệp" đời Tống. Đến bản triều lấy người thi đỗ làm quan bằng văn chương. Đó là cái cách tốt nhất. Nếu Khổng Phu Tử sống lại bây giờ thì ngài cũng phải làm văn chương theo kiểu cử nghiệp. Nhất định, không còn nói câu: "Nói ít sai lầm, làm ít điều phải thẹn" 4 nữa. Vì sao? Vì nếu ngài cứ lo "nói ít điều sai lầm, làm ít điều phải thẹn" thì ai cho ngài ra làm quan và cái đạo của Khổng Tử không thể thực hiện được 5.
Lời nói ấy làm cho Cừ Dật Phu như người trong mơ sực tỉnh. Cừ giữ Mã ở lại uống rượu, ăn cơm chiều và kết nghĩa bạn bè suốt đời. Mã cáo từ ra về. Từ đó họ thường đến chơi với nhau.
Hôm ấy, hai người nói chuyện với nhau ở hiệu sách Văn Hải Lâu, Cừ thấy mục lục quyển "Lịch khoa mặc quyển trì vân" 6 đã được khắc xong để trên bàn, ở dưới có một hàng chữ viết: "Do Mã Thuần Thượng ở Xử Châu chọn lọc và phê duyệt". Cừ nói với Mã:
- Tôi muốn hỏi ông một việc. Không biết trên tên của ông có thể thêm tên của tôi được không? Như thế thì tôi cũng được thơm lây vì tôi cũng tham dự vào việc làm văn tuyển với ông.
Mã nghiêm sắc mặt nói:
- Cái đó không được. Viết cái tên ở ngoài bìa không phải là một chuyện dễ. Riêng tôi, tôi phải mất mấy mươi năm theo dõi khoa cử, đỗ đạt cao mới có một chút hư danh. Cho nên họ mới nhờ tôi làm. Cố nhiên, tên của ông có giá trị hơn là viết vào cái bìa sách này, nhưng chỉ một trong hai ta nên có tên ở đây mà thôi. Cái đó có lý do.
- Lý do như thế nào?
- Chẳng qua là hai chữ "danh, lợi"