Mã Thuần Thượng đang quỳ khấn xin thẻ ở đền Đinh Tiên thì đằng sau bỗng có tiếng gọi:
- Ông Mã!
Mã quay lại, nhìn thấy người đó như một ông tiên, bèn vội đứng dậy thi lễ và nói:
- Tôi không biết tiên sinh đến đây nên không kịp chào. Tôi cũng chưa được biết tiên sinh là ai, tại sao lại biết tôi họ Mã?
- Thiên hạ ai chẳng biết tiên sinh? Tiên sinh đã gặp già này thì chả cần phải xin thẻ làm gì! Xin mời đến tệ xá nói chuyện.
- Tiên sinh ở đâu? - Ở gần đây thôi.
Người kia trỏ tay nói. Rồi dắt Mã ra khỏi đền Đinh Tiên. Đường đi rộng rãi bằng phẳng, không một tảng đá nào. Chỉ một chốc đã đến cửa đền Ngũ Tướng Quốc.
Mã nghĩ bụng: "Đường đi đâu ngắn thế? Mình vừa rồi đi nhầm đường chăng?"
Lại ngờ vực tự hỏi:
- Hay đây là phép rút đất của thần tiên chưa biết chừng!...
Đến trước cửa đền, người kia bảo:
- Đây là tệ xá, xin mời vào!
Bây giờ mới biết ở sau đền Ngũ Tướng Quốc có một đám đất rộng lại có vườn hoa. Trong vườn có năm gian lầu lớn. Bốn mặt đều có cửa sổ nhìn ra Trường Giang và Tây Hồ. Người kia mời Mã lên lầu. Thi lễ xong ngồi xuống, có bốn người tùy tùng mặc áo trừu đoạn, đi giày mới, bưng trà lên rất kính cẩn. Y bảo làm cơm, bốn người vâng dạ lui ra.
Mã liếc mắt nhìn, thấy gian giữa lầu treo một tờ giấy viết hai mươi tám chữ lớn! Đó là một bài thơ tứ tuyệt như sau:
Nam Độ năm xưa tới đất này 1
Phong lưu còn mãi đến ngày nay. Cảnh hồ sắc nước đều lơ láo Ngâm, hát mười châu vung vẩy tay.
Ở dưới viết mấy chữ: "Thiên thai Hồng Hám Tiên đề".
Mã đã đọc qua sách "Thông giám" nên biết Nam Độ là việc Tống Cao Tông. Bấm đốt ngón tay, đã hơn ba trăm năm. Nay ông ta còn sống đây. Vậy rõ ràng ông ta là một ông tiên, không nghi ngờ gì nữa! Mã bèn hỏi:
- Bài thơ này là do cụ làm ra?
Vị tiên nói:
- Hám Tiên là hiệu của tôi. Tôi ngẫu hứng mà làm chứ nó chẳng hay ho gì. Nếu ông thích xem thơ, tôi có một quyển thơ do các quan tuần vũ, phiên đài, các vị đương sự và tôi xướng họa với nhau, tôi xin lấy để ông xem.
Y nói xong, đưa ra một quyển thơ chép tay. Mã mở ra xem đều do chính tay tác giả viết ra cả. Toàn là thơ thất ngôn, vịnh cảnh Tây Hồ, chữ viết rất đẹp. Mã tấm tắc khen ngợi một lúc, rồi đưa lại. Cơm đã dọn lên. Trong mâm có một đĩa thịt dê hầm, một bát thịt vịt hầm với rượu, một đĩa tôm cuốn lớn và một bát canh nóng. Tuy là bữa cơm thường, nhưng rất tiêm tất. Mã tuy còn no cũng chiều lòng tiên ông cố gắng ăn trọn bữa cơm. Ăn xong tiên ông bảo người tùy tùng dọn bát đĩa.
Hồng Hám Tiên nói:
- Tôi nghe danh ông đã lâu. Các hiệu sách tranh nhau mời ông. Hôm nay sao ông lại tới đền này xin thẻ?
- Không giấu gì cụ, năm nay ở Gia Hưng tôi có soạn được một bộ văn tuyển, kiếm được mấy chục lạng bạc, nhưng tôi đã tiêu hết nhẵn để giúp cho người bạn một việc. Nay tôi đến ở một hàng sách gần đây, nhưng chưa có văn chương gì để làm văn tuyển. Tiền nhà trọ cũng hết ráo, trong lòng buồn bực, tôi mới đi dạo một chút cho khuây. Tôi định đến đền này xin một quẻ xem có cơ hội phát tài không. Không ngờ lại gặp cụ. Cụ đã rõ cả nỗi lòng tôi rồi vì vậy cũng không cần xin thẻ nữa.
- Kiếm tiền thì cũng chẳng khó, nhưng muốn ăn to phải thong thả. Bây giờ ông có muốn có món tiền nhỏ tiêu ngay không?
- Tôi chỉ cốt có tiền, kể gì to hay nhỏ. Nhưng không biết cụ có cách gì không?
Hồng Hám Tiên nghĩ ngợi một lát rồi nói:
- Thôi được, nay tôi tạm đưa cho ông vật này, ông đem về nhà làm thử xem. Nếu hiệu nghiệm thì lên nói với tôi lấy nữa. Không hiệu nghiệm thì thôi.
Hồng Hám Tiên nói xong, chạy vào đầu giường lấy ra một gói. Y mở ra, trong có mấy cục than đá đưa cho Mã mà rằng:
- Ông đem cái này về rồi đốt một lò lửa lên. Ông bỏ nó vào cái chậu đem để trên lửa xem nó thành ra cái gì. Sau đó lên đây nói cho tôi biết.
Mã nhận gói than, chào Hám Tiên rồi về. Tới nhà Mã đốt một lò lửa. Mã lấy chậu đặt lên lò. Ngọn lửa cháy lách tách một lát. Mã mang chậu ra xem thì thấy một đỉnh bạc có hoa rất quý.
Mã mừng rỡ, nấu luôn sáu, bảy chậu nữa. Kết quả được sáu, bảy đỉnh bạc thật tốt.
Mã vẫn nghi hoặc không biết số bạc này là thật hay giả. Sáng hôm sau, Mã đem đến hàng bạc ngoài phố nhờ xem thử, thì họ đều nói là một thứ bạc tốt. Mã đổi lấy mấy nghìn đồng đem về nhà.
Mã cất tiền rồi lên tạ ơn Hồng Hám Tiên. Hồng Hám Tiên đã đón ở cửa mà hỏi:
- Việc hôm qua như thế nào?
- Quả thực là phép tiên.
Rồi kể lại câu chuyện và nói cho Hám Tiên biết mình được bao nhiêu thỏi bạc.
- Tốt lắm! Tôi đang còn đây, ôm đem về thử nữa xem.
Y lại đưa cho Mã một gói to gấp ba, bốn lần gói trước. Y giữ Mã ở lại ăn cơm. Ăn xong Mã từ biệt ra về. Mã ở nhà luôn sáu, bảy hôm, ngày nào cũng lo đốt lò, đổ bạc. Mã đem tất cả than đổ thành bạc hết. Mã lấy cân, cân được tám chín mươi lạng. Mã mừng rỡ đem gói thành từng gói và cất đi.
Một hôm Hám Tiên mời Mã đến nhà và nói:
- Ông ở Xử Châu, tôi ở Thai Châu, quê quán cũng gần nhau. Ta có thể xem nhau như đồng hương đấy. Hôm nay có người khách lại thăm tôi, tôi và ông sẽ nhận nhau là anh em họ. Đây là một dịp may, ông chớ có bỏ qua.
- Cụ cho biết người khách ấy là ai.
- Ấy là ông Ba, con cụ thượng Hồ ở trong thành, tên là Chẩn hiệu là Mật Chi. Cụ thượng làm quan để của lại cũng không ít. Ông này lại có bệnh tham tiền, được càng nhiều tiền lại càng thích. Ông ta muốn học phép "đốt bạc" của tôi. Ông ta có thể bỏ bạc vạn ra để làm phí tổn đắp lò mua thuốc. Nhưng việc này cần phải có người làm trung gian. Ông ta đã biết tiếng ông. Hơn nữa, có ông làm nghề làm văn tuyển ở hàng sách, dễ tìm tung tích thì ông ta mới yên tâm. Nếu hôm nay chúng ta gặp nhau bàn tính việc ấy xong, thì đến sau bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày, tôi sẽ chế tạo xong cái "cục bạc mẹ". Bấy giờ bất kỳ đồng, chì, thiếc gì cũng có thể làm phép hóa ra vàng cả. Bấy giờ có phải chỉ có mấy trăm lạng bạc mà thôi đâu. Tôi vốn không cần tiền nên lúc ấy sẽ cáo lui về núi, còn tiên sinh đưa "cục bạc mẹ" rồi thì trong nhà tha hồ mà phong lưu.
Mã thấy y có phép tiên như thế, làm gì mà chẳng tin, bèn ngồi đợi Hồ công tử. Hồ công tử đến chào Hám Tiên rồi hỏi Mã:
- Vị này ở đâu, tên họ là gì?
Hám Tiên nói:
- Thưa đây là em họ tôi. Các hiệu sách có viết mấy chữ: Sách văn tuyển, văn bát cổ do Mã Thuần Thượng tuyển, Mã Thuần Thượng là em họ tôi đấy.
Hồ công tử ân cần đón tiếp. Thi lễ xong mọi người ngồi xuống. Công tử đưa mắt nhìn một lượt, thấy Hám Tiên người hiên ngang, đồ đạc xung quanh bày biện đẹp đẽ, bốn người tùy tùng thay nhau bưng trà, lại có nhà làm văn tuyển họ Mã là chỗ chí thân cho nên hết sức an tâm, vui vẻ. Hồ công tử ngồi một lúc rồi về.
Ngày hôm sau, Hồng và Mã cùng lên kiệu đến Hồ phủ đáp lễ. Mã lại biếu Hồ công tử một bộ văn tuyển.
Hồ công tử giữ lại nói chuyện hồi lâu. Sau đó hai người trở về.
Mã về nhà được một lát, người nhà Hồ công tử đưa đến hai cái thiếp, một cái cho cụ Hồng, một cái cho cụ Mã. Trên thiếp đều viết "Sáng mai xin mời hai cụ đến cái đình trên hồ cùng uống rượu. Mong được thỉnh giáo". Hồ Chẩn bái.
Người cầm thiếp nói:
- Ông chủ tôi mời cụ đến dự tiệc tại vườn hoa bên lầu đọc sách ở Hoa Cảng trên Tây Hồ. Sáng mai xin mời cụ cùng với cụ Mã đến sớm.
Hám Tiên nhận danh thiếp. Hôm sau, hai người cùng đến Hoa Cảng dự tiệc. Cửa vườn mở rộng, Hồ công tử đã đứng đón ở đấy.
Hai bàn tiệc dọn ra. Họ ngồi xem một vở tuồng và ăn chơi suốt một ngày. Mã ngồi trong bữa tiệc nghĩ: "Ngày trước mình chỉ đứng xem người ta ăn uống. Ngờ đâu hôm nay lại chính mình được người ta mời đến dự tiệc ở đây!".
Rượu, các món ăn, đồ điểm tâm đều rất ngon. Mã được một bữa no say.
Hồ công tử định năm ba ngày sau sẽ mời đến nhà viết giấy hợp đồng. Mã sẽ làm trung gian. Sau đó quét dọn nhà cửa, sửa soạn vườn hoa để làm nhà luyện đan. Trước tiên Hồ công tử đưa ra một vạn lạng bạc, nhờ Hám Tiên mua chế các thứ thuốc và đến ở trong nhà luyện đan.
Ba người bàn định xong. Đến chiều, tiệc tan, Mã lên kiệu trở về Văn Hải Lâu.
Mã chờ luôn bốn ngày không thấy Hám Tiên cho người lại mời, bèn đến nhà Hám Tiên. Vào cửa, thấy người hầu đang bối rối. Mã hỏi tại sao, mới biết Hám Tiên ốm, bệnh tình rất nặng. Thầy thuốc bảo mạch yếu lắm rồi nên không chịu cho đơn.
Mã kinh ngạc liền lên lầu thăm thì thấy Hám Tiên chỉ còn thở thoi thóp, đầu không ngẩng lên được nữa.
Mã vốn là người tốt nên ở lại săn sóc, đến tối cũng không về nhà.
Hai ngày sau, Hám Tiên thở hơi thở cuối cùng.
Bốn người hầu tay chân rụng rời, moi móc khắp nơi chỉ còn bốn năm cái áo vóc, nhiễu đem đi cầm cũng được độ dăm lạng bạc. Ngoài ra không còn gì khác, mấy cái rương cũng đều trống không. Bấy giờ họ mới nói họ không phải là người hầu. Một người là con, hai người là cháu, một người là rể.
Mã nghe nói hoảng hốt, muốn giúp họ. Bây giờ đến quan tài họ cũng chưa có tiền mua. Mã có lòng tốt, vội vàng về nhà lấy mươi lạng bạc đưa cho họ. Người con ngồi cạnh xác cha khóc lóc, hai người cháu đi mua quan tài, chàng rể không có việc gì nên cùng với Mã ra tiệm trà cạnh nhà nói chuyện.
Mã nói:
- Ông nhạc của ông là một vị tiên sống, năm nay đã sống được ba trăm tuổi, sao bỗng chốc lại chết đi như vậy?
- Thực buồn cười! Ông nhạc tôi năm nay mới sáu mươi sáu tuổi, làm gì đến ba trăm tuổi. Ông nhạc tôi là người không chịu an phận làm ăn, cứ thích lừa đảo. Ông kiếm được đồng nào là phung phí hết ngay. Đến nay rút cục như thế! Không giấu gì ông, chúng tôi trước đây là người buôn bán nhưng bỏ công ăn việc làm theo ông ta làm cái trò gian dối này. Nay ông ta chết rồi, chỉ khổ chúng tôi. Thế này rồi đến phải đi ăn xin để về làng, thật là khó nghĩ quá!
- Ở đầu giường ông ta còn có bao nhiêu là gói than! Đốt lò lên đổ than thì đều đổ ra bạc hoa cả.
- Nào có phải than thiếc gì đâu! Đều là bạc cả, lấy than bôi đen đi đấy thôi. Mỗi khi bỏ nó vào lò mà đốt, thì chất bạc chảy ra. Đấy chỉ là cái lối để lừa người. Khi dùng hết rồi thế là nhẵn!
- Nhưng có một điều, nếu ông ta không phải là tiên, tại sao thấy tôi ở đền Đinh Tiên, chưa quen biết gì mà ông ta đã biết tôi họ Mã?
- Ông lại nhầm rồi! Hôm ấy, ông ta cầu tiên ở đền Phiến Thạch Cư, đi ra thấy ông ngồi xem sách ở hiệu sách. Khi hàng sách hỏi ông họ gì ông ta nghe ông nói họ Mã. Chứ ở trên thế gian này làm gì có tiên!
Bấy giờ Mã mới biết vỡ lẽ: té ra ông ta chơi thân với mình chỉ là cốt để mượn tay mình lừa gạt Hồ công tử! Cũng may vận nhà họ Hồ còn vượng nên mới chưa mắc mưu!
Mã lại lẩm bẩm nói: ông ta cũng chẳng làm hại ta gì? Rút cục ta vẫn phải mang ơn ông ta!
Mã quay vào lo việc khâm liệm, tính trả tiền thuê phòng trong miếu, rồi thuê mấy người khiêng quan tài ra ngoài cửa Thanh Ba.
Mã sắm đủ rượu thịt, lễ vật, vàng giấy đưa đến chỗ để quan tài lấy gạch xây tử tế. Còn thừa ít tiền, Mã cho bốn người kia làm tiền lộ phí rồi từ biệt ra về.
Mã đưa đám xong, trở về, lại đến uống trà ở núi Thành Hoàng. Bỗng thấy bên cạnh phòng trà có đặt thêm một cái bàn nhỏ có một chàng thiếu niên bói chiết tự ở đấy.
Chàng thiếu niên kia tuy gầy, nhỏ, nhưng có vẻ thông minh. Lại có một điều lạ, là trước mặt y đặt bút nghiên, tờ đoán chữ, nhưng trong tay y lại cầm một quyển sách xem.
Mã lấy làm lạ, giả bộ muốn bói chiết tự, lại gần xem. Thì quyển sách kia chính là quyển sách tuyển văn bát cổ do mình mới soạn ra.
Mã đến ngồi trên cái ghế cạnh bàn. Người thiếu niên hỏi:
- Ông muốn bói chiết tự phải không? - Tôi đi mệt nên đến đây ngồi một lát! - Mời ông ngồi để tôi đi lấy nước trà uống. Y liền vào phòng trà lấy ra một