Trang Thiệu Quang thấy người kia xuống lừa và lạy ở dưới đất, liền vội vàng xuống xe đỡ dậy và hỏi:
- Ông là ai? Tôi chưa hề được gặp.
Người kia đứng dậy nói:
- Cách đây ba dặm, có một cái quán. Mời ngài lên xe, tôi sẽ đi theo cùng đến đấy nói chuyện.
Thiệu Quang nói: - Tốt lắm! Mời anh lên xe.
Người kia cũng cưỡi lừa cùng đi đến quán. Hai người thi lễ xong ngồi xuống. Người kia nói: - Ở kinh tôi đã tính thời gian từ khi chiếu chỉ nhà vua tới Nam Kinh nên đoán lúc này là lúc ngài lên Bắc Kinh cho nên ngay từ khi ra khỏi cửa Chương Nghi thấy cái xe lừa nào, cái kiệu nào là tôi đều hỏi. Quả nhiên tìm được ngài. Thực là may mắn quá!
- Ông họ tên là gì, quê quán ở đâu?
Tôi họ Lư tên là Đức tự là Tín hầu người Hồ Quảng. Tôi vốn có cái chí muốn sưu tầm tất cả các tập văn của những danh nhân trong triều đại ta. Trong hai mươi năm nay tôi đã tìm được nhiều không còn thiếu mấy nữa. Một trong bốn vị danh sĩ là ông Cao Thanh Khâu, nhưng sau khi ông ta mắc nạn thì không còn ai giữ lại văn chương nữa. Ở kinh chỉ còn một người giữ được. Tôi lên đó để mua quyển sách ấy với một giá rất đắt. Đang lúc định về thì nghe tin triều đình mời ngài. Tôi nghĩ rằng những người xưa đã mất mà mình còn sưu tầm sách của họ để đọc, huống chi ngài là một người danh sĩ trong đời nay, tại sao mình lại bỏ qua không gặp mặt. Vì vậy tôi chờ đợi ở Bắc Kinh đã khá lâu và cứ đi hỏi thăm ở dọc đường.
- Tôi nằm dài ở Nam Kinh, trong lòng chẳng nghĩ gì đến việc làm quan. Nhưng nay đội ơn hoàng thượng không dám không đến. Không ngờ lại được gặp ông ở đây thực là một việc thích thú. Chỉ tiếc rằng hai ta vừa mới gặp mặt đã phải chia tay biết lấy gì để tỏ tình thân. Đêm nay, chúng ta tạm ngủ ở đây một đêm. Tôi và ông cùng nằm một giường nói chuyện cho thích.
Hai người bàn đến văn chương của các danh nhân. Trang nói với Lư Tín hầu.
- Ông đọc nhiều sách, yêu người xưa như vậy thực là một người ham học. Nhưng những sách của ông Thanh Khâu quốc gia vẫn có lệnh cấm, tại sao ông không biết lo tránh đi. Mặc dầu văn chương của ông Thanh Khâu không có những lời phỉ báng triều đình, nhưng Thái Tổ ghét ông ta, sách ông ta hiện nay là sách cấm. Tôi khuyên ông đừng nên đọc sách ấy. Theo như ý tôi, trong việc đọc sách, trước phải đọc từ rộng sau mới đến chuyên. Cốt là để lãnh hội được. Trên đường về, mời ông tạt vào nhà tôi, tôi cũng có viết vài quyển sách mong được ông chỉ giáo.
Lư Tín Hầu vâng lời. Hôm sau chia tay, Lư về Nam Kinh trước, đợi Trang ở đấy.
Trang Thiệu Quang vào cửa Chương Nghi, trọ tại chùa Hộ Quốc. Từ Thị Lang lập tức cho người nhà đến hầu hạ và thân hành đến chào. Từ Thị Lang hỏi:
- Tiên sinh đi đường có mệt không?
- Tôi vốn là người nhà quê, tính tình quê mùa, không quen xe cộ, vóc người tôi như "cây bồ liễu gặp tiết thu". Vì đi đường xa mệt, tôi chưa có dịp đến yết kiến ngài, lại phiền ngài phải đến thăm.
- Ông nên thu xếp chong chóng, trong ba bốn ngày nữa thì sẽ được triệu vào.
Bấy giờ là ngày mồng một tháng mười năm Gia Tinh thứ 35 1. Sau ba ngày, Từ Thị Lang đưa chiếu chỉ của Nội các đến, chiếu chỉ viết:
"Mồng hai tháng mười Nội các vâng lệnh đạo dụ của Hoàng thượng: Nay nhờ hồng phúc của tổ tiên, trẫm ngày đêm cầu hiền để lo việc trị dân. Trẫm nghe nói: "Ai thờ tôi làm thầy, người ấy sẽ làm Vương" đó là cái lẽ xưa nay. Nay quan thị lang bộ lễ có tiến cử ông Trang Thượng Chí. Ngày mồng sáu cho vào triều bệ kiến để nêu rõ phép tắc của triều đình. Khâm thử."
Canh năm ngày mồng sáu, vệ sĩ lâm quân đã chầu chực ở ngoài cửa Ngọ Môn. Các nghi trượng của thiên tử đều được bày biện. Các quan đến chầu chực ở ngoài cửa Ngọ Môn. Trong ánh sáng của một trăm ngọn đuốc, Tể tướng đi vào. Cửa Ngọ Môn mở rộng. Các quan vào theo cửa bên cạnh. Họ đi qua cửa Phụng Thiên, đến điện Phụng Thiên, ở trong nghe tiếng nhạc và nghe tiếng quan Hồng Lô đang xướng "Bài ban!" (Đứng vào hàng).
Nghe ba tiếng roi, những người thái giám đi ra từng đoàn, mang những lư hương bằng vàng ở trong đốt long diên hương. Những người cung nữ tay cầm quạt đưa Thiên Tử đi ra ngồi ở ngai vàng. Mọi người tung hô vạn tuế rồi sụp xuống lạy. Trang Thiệu Quang mặc triều phục đứng ở cuối hàng, cũng tung hô, phục xuống lạy chào Thiên Tử. Sau đó tiếng âm nhạc dứt. Bãi triều, hai mươi bốn con voi, mang những cái bình rất quý từ từ đi ra không có người dắt. Rõ thật là:
"Hoa đón gươm mang sao mới lặn
Liễu khuơ cờ quạt móc chưa khô 2
Trang thấy các quan đi ra, cũng trở về nhà. Cởi triều phục xong, Trang đi đi lại lại thì vừa thấy Từ Thị Lang đến chào. Trang mặc áo thường ra tiếp. Uống trà xong, Từ Thị Lang nói:
- Hôm nay Hoàng thượng ra điện thật là một cái lễ lớn ít có. Ông nên ở nhà đợi có lệnh phải triều kiến chăng?
Ba ngày sau, có một đạo dụ đưa đến "Ngày mười một, cho Trang Thượng Chí lên điện để triều kiến. Cho cưỡi một con ngựa ở trong chuồng của nhà vua".
Đến ngày mười một, Từ Thị Lang đưa Trang đến cửa Ngọ Môn. Từ Thị Lang đứng ngoài phòng đợi, còn Trang một mình bước vào cửa Ngọ Môn. Chỉ thấy hai người Thái giám dắt một con ngựa của nhà vua, mời Trang cưỡi. Hai người quỳ xuống giữ bàn đạp ngựa đợi Trang đã ngồi yên rồi, hai người kia mới cầm dây cương, dây cương cũng màu vàng! Họ dắt Trang đi chầm chậm qua cửa Cần Chánh. Đi đến ngoài cửa Tuyên Chính Điện, Trang xuống ngựa đứng ở đấy. Lại có hai người Thái Giám khác truyền lệnh cho Trang đi vào điện. Trang nín thở bước vào. Thiên Tử mặc áo thường, ngồi trên ngai vàng. Trang bước đến sụp lạy Thiên Tử nói:
- Trẫm làm vua đã ba mươi lăm năm nay, nhờ hồng phúc của trời đất và tổ tiên, bốn bề thái bình, biên cương vô sự. Nhưng trăm họ thì vẫn chưa no ấm cả, các sĩ và đại phu vẫn chưa theo đúng lễ nhạc. Trong việc dạy dỗ và nuôi dân; cái gì phải làm trước? Trẫm mời tiên sinh từ nơi thôn dã đến đây chính là muốn hỏi về việc đó. Mong tiên sinh cứ việc tâu lên, không cần phải giấu giếm gì hết!
Trang sắp sửa tâu lên, không ngờ trên đỉnh đầu có một cái gì đốt đau nhói không chịu được, đành phải cúi xuống tâu rằng:
- Đội ơn Hoàng thượng hỏi đến việc đó, nhưng thần không thể tâu ngay được. Xin cho thần suy nghĩ kỹ, sau sẽ trình tâu.
- Như thế cũng được! Tiên sinh nhớ làm vừa lòng trẫm. Cốt nhất là nói những việc có thể làm được, hợp với thời xưa mà cũng không trái với thời nay.
Nói xong đứng dậy về cung. Trang ra khỏi điện Cần Chính. Thái Giám lại đưa ngựa đến để Trang cưỡi đi ra Ngọ Môn. Từ Thị Lang đợi ở ngoài cửa cùng Trang trở về. Từ Thị Lang cáo từ về nhà. Trang về nhà cởi cái mũ ra xem thì thấy ở trong mũ có một con rết. Trang cười mà rằng:
- Té ra cái con vật này! Xem ra đủ biết đạo của ta không thể thực hành được!
Hôm sau, Trang rửa tay, đốt hương, bói một quẻ thì được quẻ "Thiên Sơn Độn" 3 Trang cười mà rằng:
- Đúng rồi!
Bèn viết tỉ mỉ mười chính sách dạy dỗ và nuôi dưỡng dân và làm một tờ sớ xin nhà vua cho về nhà thờ quan thông chính tư đưa lên. Từ đấy, tất cả các quan to ở trong triều không ai là không đến thăm. Mặc dầu Trang không chịu nổi sự phiền phức ấy, nhưng cũng đành phải thăm lại tất cả các nha môn. Quan đại học sĩ nói với Tử Thị Lang:
- Ông Trang ở Nam Kinh lại. Hoàng Thượng có ý muốn dùng ông ta vào việc lớn, tại sao ông không đưa ông ta đến thăm tôi? Tôi muốn nhận ông ta làm môn hạ.
Thị Lang không dám trái lời lại đem việc ấy nói với Trang. Trang nói:
- Trong đời này đã không có đức Khổng, tôi không muốn làm học trò ai hết. Hơn nữa, quan Thái Bảo đại học sĩ đã bao nhiêu lần làm chủ khảo các kỳ thi, số học sinh ở trong viện hàn lâm vô số cần gì phải lấy một người quê mùa như tôi làm học trò? Tôi đâu dám lĩnh giáo.
Từ Thị Lang đem việc này nói lại với quan Thái Bảo, Thái Bảo không bằng lòng.
Mấy hôm sau, thiên tử ở trong điện hỏi Thái Bảo: - Mười chính sách của Trang Thượng Chí trẫm đã xem kỹ thấy học vấn thật là uyên thâm. Con người này có thể dùng làm phụ bật 4 được không?
Thái Bảo tâu rằng: - Trang Thượng Chí quả là một người tài năng xuất chúng, được thiên tử đối đãi rất hậu, trăm họ đều mừng rỡ. Nhưng ông ta không xuất thân tiến sĩ 5 mà đã vụt nhảy ngay lên hàng khanh tướng. Trong bản triều ta xưa nay chưa có việc như thế này làm như vậy sợ tăng thêm cái lòng cầu may cho thiên hạ. Cúi mong thánh thượng xét.
Nhà vua thở dài một hồi rồi bảo đại học sĩ truyền lệnh:
"Trang Thượng Chí được phép về nhà. Lấy năm trăm lạng bạc ở trong kho nhà vua ra cho Trang Thượng Chí và cho Hồ Nguyên Vũ ở Nam Kinh làm nơi viết sách, ca ngợi cái sáng tỏ của triều đình".
Đạo chỉ truyền xuống, Trang đến cửa Ngọ Môn tạ ơn, từ biệt Từ Thị Lang thu xếp hành lý để về Nam Kinh. Các quan trong triều đến tiễn và biếu lễ vật. Trang đều từ chối. Trang lại đi một cái xe ra khỏi cửa Chương Nghi.
Hôm ấy trời lạnh, Trang đi thêm mấy dặm nhưng không tìm ra quán trọ, phải rẽ vào một con đường nhỏ đến một cái nhà xin nghỉ trọ. Đó là một cái nhà tranh, ở trong thấy một đĩa đèn dầu. Một cụ già trạc độ sáu bảy mươi tuổi đứng ở ngoài cửa. Trang Thiệu Quang đến vái chào và nói:
- Thưa cụ, chúng tôi đi đường không có chỗ trọ xin cụ cho ở nhờ đây một đêm, đến mai tôi xin trả tiền trọ.
Cụ già đáp:
- Ông khách! Đi đường có ai mang theo nhà đi đâu, ông muốn ở đây cũng không ngại gì. Nhưng nhà tôi chỉ có một gian. Hai vợ chồng tôi đều đã bảy mươi tuổi. Không may sáng nay nhà tôi vừa mất, không có tiền mua quan tài. Thi hài hiện còn ở trong nhà, ông nằm chỗ nào? Hơn nữa, ông lại có cả xe cộ không thể đưa vào nhà được.
- Không hề gì, tôi chỉ xin một khoảng đất để trải chiếu ngủ tạm một đêm, còn xe thì để ở ngoài cửa.
Cụ già nói: - Nếu vậy thì tôi và ông cùng ngủ một giường. - Tốt lắm!
Trang bước vào nhà thấy xác của người đàn bà đang nằm cứng đờ trong một góc phòng, cạnh cái giường đất Trang trải nệm ra bảo đầy tớ và người đánh xe cùng ngủ trong xe, nhường cụ già nằm ngủ ở phía trong, còn mình nằm ngủ ở phía ngoài. Đêm nằm cứ trằn trọc không sao ngủ được. Đến canh ba, thấy cái xác chết cựa quậy. Trang giật nẩy mình nhìn thấy hai tay nó giơ ra như muốn ngồi lên. Trang nói:
- Người kia sống lại rồi!
Và vội vàng đánh thức cụ già nhưng lay mãi vẫn không thấy cụ tỉnh dậy. Trang nghĩ bụng cụ già nhiều tuổi mà sao ngủ say quá như vậy. Bèn ngồi dậy nhìn kỹ thì ra cụ già không thở nữa và đã chết rồi!
Quay lại nhìn Trang thấy người đàn bà kia đã đứng dậy, hai chân đứng thẳng, cặp mắt trắng dã: thì ra, không phải là người đó sống lại, mà chính