Trung Nguyên lục địa thời đại thứ ba, năm thứ mười tám, ngày mồng một tháng năm.
Thương Khung Sơn.
Câu chuyện bắt đầu vào một chiều mưa tầm tã.
Tề Trạch Dương khi đó là con trai độc nhất của Tề gia, lớn lên hiểu chuyện lại lễ nghĩa thanh tú, cha mẹ cũng vì vậy mà càng thêm sủng ái. Gia phụ Tề Trạch Dương theo nghiệp y, từ bé đã vào Nam ra Bắc, hành y cứu người. Sau này phụ mẫu mất sớm, gia cảnh lụn bại, thiếu niên liền mang theo thân muội duy nhất rời khỏi quê cũ, làm lụng nuôi nấng cả hai trưởng thành.
Trải qua bốn năm mưu sinh, Tề Trạch Dương lúc này mười ba, Tề Thanh Thê mười hai tuổi, có một ngày vị đạo trưởng tiên phong đạo cốt trên đường lớn mua của hắn hai cái màn thầu vừa ra lò, sau đó quay sang quan sát muội muội hắn hồi lâu, gật gù nói căn cơ không tệ, không tệ, nếu được hướng dẫn bài bản, tương lai ắt trở thành cường giả hùng mạnh.
Tề Trạch Dương khi đó đang chia cho Tề Thanh Thê nửa cái bánh hoa quế còn lại từ buổi sáng, sau khi bóng hình vị tiên trưởng kia đi xa rồi vẫn ngồi suy nghĩ thật lâu, cuối cùng quyết định viết một lá thư xin nghỉ tới lão bản khách điếm, cuối tháng cẩn thận sắp xếp hành lí, dẫn theo muội muội lên đường tới Thương Khung Sơn.
Không giống với Tề Thanh Thê từ khi còn nhỏ đã có tư chất tu luyện, Tề Trạch Dương trái lại linh căn kém cỏi, ngày hôm đó lẽ ra đã bị đuổi xuống chân núi Thương Khung hoặc trở thành đệ tử ngoại môn phụ trách quét dọn, vậy mà chỉ bằng một lời nhờ cậy thản nhiên của Đoan Mộc Mạc Ly liền tiến thẳng làm nội môn đệ tử, sau khi bái nhập môn phái thì được phân tới Thiên Thảo Phong.
Tề Trạch Dương học dược một năm, đợi tới khi thông thạo hết công dụng của các vị thuốc ghi trong tàng thư các mới dám cắp sách đến học đường, không ngờ lại bị huynh đệ đồng môn bĩu môi châm biếm, nói hắn linh lực thấp kém, là một người tầm thường nhờ cậy trưởng bối mới được làm đệ tử nội môn, đến trường làm gì, thức thời thì ngoan ngoãn ở trong phòng đọc thêm vài quyển thư dược, tránh sau này làm mất mặt Thiên Thảo Phong.
Tề Trạch Dương luống cuống tay chân đứng sững tại chỗ, nhìn lớp học loạn thành một đoàn, trang sách bay tứ tung, rơi trúng người hắn, tựa như cánh chim bồ câu trắng, bên trên chậm rãi quết đầy vết mực đen.
Đó là lần đầu tiên Tề Trạch Dương hiểu được sự khác biệt giữa người với người, liền cúi đầu hạ mắt, mím chặt môi ba chân bốn cẳng chạy về phòng. Đến nơi mới hay tin, phong chủ Thiên Thảo Phong có một người trưởng tỷ đã gả đi xa, cô gia họ Đoàn, là thế gia cai quản cả một toà thành rộng lớn, hôm nay không may xuống dốc, lại không có người thân, đành phải mang theo con trai tìm đến đệ đệ ruột là phong chủ Thiên Thảo Phong để nương tựa.
Ngày đó, mưa như xối nước, sắc trời tối dần, màn đêm buông xuống phản chiếu một lớp ánh sáng màu xanh nhạt lên tường nhà, tiếng ve sầu ồn ã xua tan bóng đêm tịch mịch. Thiên Thảo Phong mở cửa hông, đoàn nữ tì nối đuôi nhau mà vào, mỗi người cầm theo một chiếc lồng đèn đỏ, nhỏ bé mà mông lung, lập lòe điểm xuyết trong màn mưa u ám.
Tề Trạch Dương vô tình đi ngang qua liền bị khung cảnh này làm cho tò mò mà bám theo, tiếng đế giày nện giữa hành lang bạch bạch vang lên. Giữa tiền thính đặt một chậu than cháy đỏ, một vị bạch y công tử mi thanh mục tú, vẻ mặt mộc mạc mà khéo léo, đang cúi đầu hàn huyên cùng phong chủ. Nghe thấy tiếng động, lập tức ngẩng nhìn lên, liền bắt gặp thiếu niên đang tròn mắt hiếu kì trốn sau cánh cửa. Không biết có phải hoa mắt hay không, Tề Trạch Dương cảm giác hắn đang hướng chính mình nở nụ cười.
Dương quang tháng ba cũng không ấm áp bằng nụ cười của hắn, suốt cuộc đời có lẽ cũng chỉ có được một lần hội ngộ bất ngờ như vậy. Trong phòng tùy tiện điểm vài ngọn nến, đình viện tiêu điều, mỗi một viên gạch trong căn phòng cũng không che lấp được khí chất của người kia. Lần đầu tiên, Tề Trạch Dương cảm thấy cử chỉ khi phong chủ trò chuyện với vị công tử kia thật thô kém, mà chính hắn cũng đang ngây ngốc đứng ngoài cửa, đầu óc rối bời không biết làm sao cho phải.
Đáng tiếc vẫn chưa kịp thay bộ xiêm y mới.
Công tử sau khi trò chuyện cùng thúc phụ liền bước ra ngoài, chuẩn xác hướng về phía Tề Trạch Dương, sờ sờ đầu hắn, nói ta là nội điệt của phong chủ, kêu Đoàn Nguyệt, từ hôm nay trở đi, đệ có thể giúp đỡ ta được không?
Trong chậu than, lửa đang cháy lớn, trên người đối phương tỏa ra mùi hương thơm ngát. Quần áo của Tề Trạch Dương được tẩm thảo dược phương Nam, có tác dụng an thần ngủ ngon, nhưng so với vị công tử kia, lại cảm thấy chính mình còn không sạch sẽ bằng những kẻ bán cá ngoài chợ.
Tề Trạch Dương ngây ngốc gật đầu, Đoàn Nguyệt thấy mọi người bận rộn, liền nắm tay hắn ra hậu viện, chỉ vào mấy món đồ cổ đặt trong phòng. Cái này là bình sứ Thanh Hoa thời Hạ, Minh Thanh thượng hà đồ thời Bắc Tống, kia là Hàn thiết thiệp của Vương Hy, còn có bình đựng rượu Tứ dương phương tôn thời nhà Thương, tranh du xuân của Triền Tử Kiền... Tề Trạch Dương lăng lăng thốt lên tại sao cái gì huynh cũng biết, vậy bức tranh mẫu đơn bên kia huynh cũng biết sao?
Đoàn Nguyệt lại cười, cúi đầu nói không biết, nhưng huynh có thể học, đệ có muốn học chung với huynh không?
Bên ngoài mưa rơi tí tách, giữa đình có một cái ao, nương theo giọt nước mà nổi sóng. Gió đêm thổi qua sảnh đường, Tề Trạch Dương ngẩn ngơ hồi lâu, chậm rãi mà chắc chắn gật đầu.
Năm ấy Tề Trạch Dương mười bốn, cũng là mối tình đầu.
Sau này Tề Trạch Dương mới biết, vị công tử vừa mới tới đã đỗ tú tài năm mười ba tuổi, gặp quan huyện đại nhân có thể không cần cúi đầu. Đoàn gia tuy rằng lụn bại, nhưng người mẫu thân bệnh nằm liệt giường mỗi khi nhắc đến con trai của mình vẫn đều không nhịn được phát ra hào quang.
Mà vị công tử bạch y khiến người người ngoái nhìn kia, năm ấy cũng chỉ vừa tròn mười sáu tuổi.
Đoàn Nguyệt sau đó cũng không bái nhập làm môn hạ đệ tử của Thương Khung Sơn, lại được phong chủ trực tiếp cầm tay chỉ dạy. Buổi sáng sẽ ngẫu nhiên luyện kiếm, buổi chiều lại ở thư phòng đánh đàn đọc sách, tu vi tăng tiến so với đệ tử đồng trang lứa còn nhanh hơn, ở trong Thiên Thảo Phong được không ít sư tỷ sư muội ái mộ nhớ thương.
Mưa thu se lạnh, mùa đông tuyết trắng, xuân đến phập phồng, nắng hạ chói chang, lại qua một năm.
Mẫu thân Đoàn Nguyệt sau thời gian dài mắc bệnh trầm kha, vừa lập thu liền đi. Đoàn Nguyệt giữ đạo hiếu ba năm, ngày ngày ở hậu viện đóng cửa đọc sách, cũng từng muốn trở về nhà ở Vọng thành Trường Tân. Khi đó Tề Trạch Dương liền nắm tay hắn, nói chờ tới khi đệ nhược quán, đệ có thể đến tìm huynh được không. Đoàn Nguyệt không biết là suy nghĩ gì mà im lặng hồi lâu, rốt cuộc lại không rời đi nữa.
Khi Tề Trạch Dương mười sáu, đã quen với việc bốc thuốc kê đơn, cũng không còn bận đến sứt đầu mẻ trán, ngày ngày bám theo Đoàn Nguyệt tới thư phòng nghe hắn đánh đàn nhìn hắn đọc sách. Bên ngoài mưa sa bão táp, huynh đệ đồng môn ghẻ lạnh, phong chủ bế quan quanh năm, từ sáng sớm đến chiều muộn ở ngoài vườn chăm bón cây thuốc, lúc được trở về một lòng chỉ muốn nhìn thấy nụ cười của người kia, tựa như ánh mặt trời tháng ba, vừa liếc mắt thì cả người đều đã cảm thấy ấm áp.
Hai năm sớm chiều bên nhau, chậm rãi đã không còn thỏa mãn với việc chỉ ngồi đối mặt, nhịn không được bắt đầu ảo tượng chạm vào thân thể đối phương, tự hỏi nếu bàn tay tuyệt mỹ đang đánh đàn ấy chạm vào mình thì sẽ có tư vị như thế nào, lại hận không thể biến thành quyển sách trong tay hắn. Đoàn Nguyệt chấp bút viết bài Giang thành tử của Tô Thức, ngàn dặm cô phân, tầng tầng thê lương. Tề Trạch Dương ngắm nhìn gương mặt tuấn lãng cùng vài sợi tóc mềm rũ trên trán hắn, chỉ cảm thấy nơi làm người ta xấu hổ kia đang ẩn ẩn đau đớn, thừa dịp bốn bề vắng lặng, cố thêm dũng khí ôm