LỜI NÓI ĐẦU
“Tôi biết Hoang thôn ở đâu rồi.”
Đây là tiêu đề của một bài viết trên mạng BBS, kích chuột mở ra xem, hóa ra lại là những trang hoạt họa flash.
Dưới bóng đêm u ám khiến ta nghẹt thở, những con sóng đục ngầu vỗ vào bờ thê lương, một thôn nhỏ cô đơn, bất động như đã chết nằm trên sườn núi, rất nhiều mái nhà đen thui rải rác lố nhố. Từ hang động trên đỉnh núi có thể nhìn bao quát toàn bộ thôn xóm, một bóng thiếu nữ áo trắng xa xăm đứng đó, cuồng phong thổi tung tóc và áo váy cô gái, giai điệu của ca khúc nhạc kịch nổi tiếng “Bóng ma nhà hát" làm nền.
Hóa ra đây là flash của một cư dân mạng chế tác sau khi đọc truyện của tôi. Đây là Hoang thôn trong lòng họ ư?
Theo giai điệu “Bóng ma nhà hát" quen thuộc, từng trang flash hiện lên. Tôi hít thở thật sâu. Kể từ sau khi truyện ngắn "Hoang thôn" đăng trên tạp chí “Chồi non,” cuộc sống của tôi đã bị đảo lộn bởi câu chuyện này. Truyện ngắn này cũng đã khiến ột nhân vật vô cùng bí hiểm xâm nhập vào cuộc sống của tôi, còn nhân vật bí hiểm này là ai? Tôi sẽ thuật lại chi tiết với bạn ở đằng sau tiểu thuyết.
Ngoài nhân vật bí hiểm này ra, bên cạnh tôi còn phát sinh vài việc đại sự, thậm chí đến giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn cảm thấy sợ hãi vô cùng. Những truyện này không thể tin nổi tới mức nào, tôi đã từng kể hết lại cho rất nhiều người bạn phóng viên của mình, nhưng không một ai trong số họ tin tôi, tất cả đều cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết gần đây tôi mới sáng tác.
Ôi, thật là hối hận vì lúc đó tôi đã không mang theo một chiếc DV bên mình để có thể ghi lại toàn bộ những chuyện này, rồi sau đó sẽ quay thành một bộ phim phóng sự khiến bạn phải sợ hãi khủng khiếp tới mức dựng cả tóc gáy, nếu không thì ai có thể tin được những chuyện li kì đến nhường vậy nhỉ? Đã như vậy rồi thì các bạn hãy cứ coi như mình đang vô tình nghe thấy một đoạn truyện kì quái trong đêm đen lạnh giá nhé!
Trong rất nhiều tiểu thuyết của tôi, câu chuyện đều giống như “Đống đổ nát hình tròn” dưới ngòi bút của Borges, không có thời điểm cũng không có kết thúc, đều có thể mở ra cho bạn một đường hầm bí mật, đưa bạn đến thế giới của trí tưởng tượng…
Nhưng nếu như muốn kể lại câu chuyện này thì bắt buộc phải bắt đầu từ mùa xuân năm đó. Trên tạp chí “Chồi non” tháng tư năm đó có đăng truyện ngắn "Hoang thôn" của tôi.
Truyện ngắn hơn hai vạn chữ này kể lại câu chuyện như sau:
Hoang thôn xuất hiện lần đầu tiên trong tiểu thuyết “Quán trọ u hồn” của tôi, là một sơn thôn nhỏ hoang vắng tại miền đông Chiết Giang, tọa lạc giữa biển và nghĩa trang. Nhưng sự thật là tôi vẫn chưa từng đến Hoang thôn, bởi vì địa danh này đơn thuần không nằm ngoài sự hư cấu của tôi.
Nếu như không phải là lần đi triển khai hoạt động kí tên bán sách đó, thì có lẽ Hoang thôn vĩnh viễn chỉ tồn tại trong tưởng tượng của tôi mà thôi.
Hoạt động kí tên bán sách “Quán trọ u hồn” được tiến hành trong một hiệu sách tại nhà ga. Đó là một đêm đông lạnh giá, lúc hoạt động kí tên bán sách sắp kết thúc thì một cô gái tên là Tiểu Chi xuất hiện trước mặt tôi.
Cô mặc một chiếc áo len rộng thùng thình không hề vừa vặn với cơ thể, cột tóc đuôi ngựa dài đen láy được buộc gọn đằng sau, xem ra là một sinh viên đại học. Cô gái kì lạ này có một đôi mắt thật đẹp, ánh mắt ẩn chứa một cảm giác thật khó thốt thành lời. Cô cẩn thận lễ phép mời tôi kí tên cho mình, cô giới thiệu mình tên là Tiểu Chi, đến từ một địa danh tên là Hoang thôn.
Tôi bỗng ngây người ra, bởi vì Hoang thôn chỉ là cảnh tượng được hư cấu trong tiểu thuyết, nhưng cô gái lại nói Hoang thôn là địa danh có thực, hơn nữa lại còn nằm giữa biển và nghĩa trang.
Tuy không dám tin lắm, nhưng tôi vẫn bị cô gái làm cho chấn động, và đôi mắt sáng trong hút hồn như nai con lạc đường trong đêm tối của cô ấy đã khiến tôi không thể không nảy sinh thiện cảm. Tức khắc, tôi đã đưa ra quyết định, muốn mời Tiểu Chi đưa tôi đến Hoang thôn, xem địa danh hư cấu trong tiểu thuyết của mình rốt cuộc như thế nào ngoài đời thực?
Sau mấy tuần khắc khoải chờ đợi, Tiểu Chi cuối cùng cũng đồng ý lời nhờ vả của tôi, cô đưa tôi đến bến xe đường trường để bước vào chặng đường tới Hoang thôn phía trước.
Tiểu Chi nói với tôi, Hoang thôn nằm ở thị trấn Tây Lãnh của thành phố ven biển K phía đông tỉnh Chiết Giang, sau sự biến Tĩnh Khang thời Đại Tống tám trăm năm trước, di dân trung nguyên đã tháo chạy đến vùng đất hoang bên bờ biển và định cư tại đây, từ đó hình thành nên địa danh Hoang thôn này.
Tiểu Chi sinh ra và lớn lên tại Hoang thôn, hai năm trước cô thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng tại Thượng Hải, bây giơ đang đúng dịp về nhà nghỉ đông.
Thông qua những chặng đường chuyển tiếp, tôi và Tiểu Chi rốt cuộc đã đặt chân tới Hoang thôn, ở đây đích thực nằm giữa biển và nghĩa trang, những rặng núi và vách núi dựng đứng thê lương ngút ngàn tầm mắt, thời gian dường như ngưng đọng ở đây, vẫn như đang dừng lại tại niên đại hoang vắng hàng trăm năm trước.
Đầu thôn là một tấm bia đá khổng lồ dựng đứng, phía trên có khắc bốn chữ to “Trinh Liệt Âm Dương.” Nghe nói là trong những năm Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một người đỗ tiến sĩ, để biểÂu Dương mẹ của người này, hoàng đế đã ngự giá ban tặng cho bà tấm bia tiết hạnh.
Tiểu Chi dẫn tôi bước vào Hoang thôn, đến một ngôi nhà cổ kính, trước cổng ngôi nhà có ba chữ “Tiến Sĩ Đệ.” Hóa ra đây là nhà của Tiểu Chi, và tấm bia đá trước cổng thôn cũng là được ban tặng cho tổ tiên gia tộc cô. Ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ tối om, sâu hun hút, bên trong có vài sân sướng, bước vào cửa là đại đường “Nhân ái đường,” trong đại đường có treo một bức chân dung cổ nhân bằng giấy ống quyển.
Ngôi nhà cô to nhường vậy nhưng lại thiếu hơi người, chỉ còn cha của Tiểu Chi vẫn sống ở đây. Người đàn ông trung niên này sắc mặt trắng bệch, thân hình gày gò ốm yếu, ông tự xưng là Âu Dương tiên sinh, giọng điệu khi nói chuyện lúc nóng lúc lạnh, rất giống một xác ướp.
Địa danh Hoang thôn này đương nhiên không thể có khách sạn, khi màn đêm buông xuống, tôi chỉ có thể ở nhờ trong căn nhà cổ kính này.
Tiểu Chi bưng chiếc đèn dầu, dẫn tôi vào sân sau, trên lầu có một căn phòng đã đóng cửa từ rất lâu rồi.
Tôi cẩn trọng bước chân vào căn phòng cổ kính, kinh ngạc phát hiện ra bên trong có một bức bình phong cổ, đây là một bức bình phong sơn mài bốn cánh, chắc chắn là cổ vật từ đời Thanh, nhưng càng khiến tôi kinh ngạc hơn chính là những hình vẽ trên bình phong đó. Cảnh thứ nhất vẽ hình một người đàn ông và một người đàn bà, hai người say đắm nhìn nhau đầy lưu luyến, xem ra đây là cảnh tượng li biệt của một đôi vợ chồng hoặc một đôi tình nhân. Cảnh thứ hai vẫn là người đàn bà đó, hình như đang khóc, trước mặt cô là một tăng nhân đứng đó đưa chiếc sáo vào tay cô ta. Cảnh thứ ba vẽ cảnh trong buồng, người đàn bà ngồi một mình trên chiếu trúc, tay cầm chiếc sáo đưa lên miệng, trên xà nhà treo ba dải lụa trắng. Cảnh thứ tư vẽ người đàn ông ban nãy đang nằm bên cạnh một chiếc quan tài sơn đỏ, càng đáng sợ hơn vì nắp quan tài mở ra và tay người đàn ông vẫn nắm lấy chiếc sáo trúc.
Nhìn những hình vẽ này trên bình phong, tôi sởn hết da gà, một bóng đen kì dị chập chờn lay động trên bình phong, dường như người đàn ông trong tranh vẽ đang sắp bước ra ngoài tới nơi.
Tiểu Chi kể cho tôi nghe câu chuyện vẽ trên tấm bình phong cổ này.
Vào thời Gia Tĩnh triều Minh, Hoang thôn có một đôi vợ chồng trẻ, người vợ tên là Yên Chi. Lúc đó cướp biển Nhật Bản hoành hành, chồng của Yên Chi bị cưỡng chế vào quân đội, bị ép buộc ra tỉnh ngoài đánh trận với cướp biển Nhật Bản.
Trước khi lên đường, người chồng đã hẹn ước với vợ: vào ngày tết trùng dương ba năm sau, anh nhất định sẽ trở về cùng cô tương ngộ, nếu như đến ngày hẹn ước mà không thể gặp lại, hai người sẽ cùng nhau tự tử trong đúng đêm tết trùng dương đó.
Ba năm sau, ngày tết trùng dương cận kề, người chồng phương xa vẫn bặt vô âm tín. Yên Chi ngày nào cũng ra cổng thôn đứng ngóng trông, một hôm cô gặp được một nhà sư khất thực, tăng nhân trao lại cho cô chiếc sáo trúc, dặn dò cô đến đúng đêm trùng dương thì thổi sáo, người chồng sẽ trở về như lời hẹn ước.
Vào đúng đêm trùng dương, Yên Chi thổi sáo, khi giai điệu u buồn vừa kết thúc, người chồng quả nhiên về tới trước cửa nhà. Cô vui mừng khôn xiết giúp chồng cởi áo, dịu dàng hầu hạ chồng nằm xuống nghỉ ngơi.
Sau khi hai người cùng nhau trải qua vài đêm hạnh phúc, người chồng đột nhiên mất tích. Không lâu sau, Yên Chi nghe tin người chồng đã tử trận vào đúng ngày tết trùng dương. Hóa ra, đêm trùng dương đó, tại chiến trường xa xôi nghìn dặm chồng cô đã cố ý xông lên hàng đầu và đã bị kẻ địch bắn chết.
Anh với danh nghĩa tử trận, nhưng thực chất là tự tử vì tình, lấy cái chết để thực hiện lời hẹn ước với vợ. Linh hồn anh vượt qua trăm sông ngàn suối chỉ để trở lại cố hương Hoang thôn. Và đúng giây phút đó, Yên Chi đã thổi chiếc sáo thần bí, tiếng sáo dÂu Dương đã dẫn đường cho linh hồn người chồng trở về nhà.
Buổi tối hôm đó, tôi chỉ nghĩ về câu chuyện này, không sao ngủ được. Đến quá nửa đêm, tôi dứt khoát bước ra khỏi phòng, phát hiện vách tường phòng bên vẫn còn ánh nến.
Kìm nén sự sợ hãi, tôi len lén nhìn vào cửa sổ phòng bên cạnh.
Trên bàn trang điểm cũ kĩ có thắp một ngọn nến, ánh nến yếu ớt soi rọi một cô gái mặc áo trắng, nhưng tôi không thể nhìn thấy mặt cô ấy, chỉ thấy cô ấy đang chải mái tóc dài đen láy. Tôi lập tức nhớ lại cảnh tượng kinh điển khủng khiếp trong bức tranh bèn hoảng loạn bỏ chạy về phòng mình.
Đây là đêm đầu tiên của tôi ở Hoang thôn.
Ngày thứ hai, Tiểu Chi đưa tôi đi khắp thôn tham quan. Ở đây quả nhiên là thôn nghèo khắc nghiệt, những dãy núi thê lương và biển thì đen thui khiến tôi nhớ đến “Quán trọ Jamaica” (1).
(1) Quán trọ Jamaica (Jamaica Inn) cuốn tiểu thuyết của nhà văn người Anh Daphne du Mauriesr.
Tiểu Chi chỉ có đúng một vẻ biểu cảm, dường như vĩnh viễn chẳng có lúc nào vui vẻ, cô ấy luôn thẫn thờ nhìn biển thất thần. Thấy cô nhìn chằm chằm về phía biển, lòng tôi bỗng nhiên nảy sinh chút manh động, nhưng rốt cuộc vẫn kìm chế được mình.
Buổi chiều, trong phòng của Tiểu Chi, tôi thấy trên bàn làm việc có đặt một khung ảnh, bên trong có lồng một tấm ảnh đen trắng của cô ấy, trông cô trong ảnh thật quyến rũ, chỉ có điều ánh mắt phảng phất chút u sầu.
Nhưng Tiểu Chi lại nói người trong ảnh đã chết từ lâu rồi. Hóa ra đây là ảnh của mẹ Tiểu Chi, mẹ con cô ấy quả thật giống nhau quá.
Lúc Tiểu Chi còn rất nhỏ, mẹ cô đã bị bệnh và qua đời, bà chết trong căn gác tôi hiện đang ở. Cha một mình nuôi cô khôn lớn. Tiểu Chi chỉ có thể nhìn thấy mẹ qua bức ảnh này.
Vào mười hai giờ đêm hôm đó, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng sáo trúc, hình như từ trên núi phía đằng sau vọng lại. Tiếng sáo trong đêm làm tôi bồn chồn bất an, tôi vội vàng chạy khỏi ngôi nhà Tiến Sĩ Đệ, lần theo tiếng sáo tìm ra được người thổi sáo trên núi. Hóa ra người thổi sáo chính là cha của Tiểu Chi, Âu Dương tiên sinh.
Nửa đêm chạy lên núi thổi sáo, hành vi kì quặc này khiến tôi tò mò, và chiếc sáo trên tay ông cũng vô cùng đặc biệt, nghe nói là nó đã có tới hàng trăm năm lịch sử.
Tôi nghĩ chiếc sáo này nhất định mang trong mình một câu chuyện nào đó, quả nhiên, Âu Dương tiên sinh kể cho tôi nghe, chiếc sáo này chính là chiếc sáo thần bí mà Yên Chi thổi năm nào, và câu chuyện về Yên Chi vẫn còn có một phiên bản khác.
Hoang thôn mấy trăm năm trước, Yên Chi thổi sáo trúc đúng đêm tết trùng dương và cùng linh hồn chồng tương ngộ. Ba tháng sau, cô phát hiện mình có thai. Đây là một kì tích. Đứa trẻ cô mang trong bụng chính là hạt giống mà chồng cô