NGÀY THỨ HAI MƯƠI BA
Buổi sáng tỉnh dậy đã khá muộn, cơn mưa to đêm qua đã tạnh từ lâu, nhưng những nhánh Chi trinh đằng leo ngoài cửa sổ vẫn còn đọng những hạt nước. Sau một đêm được nước mưa tưới tắn, chúng càng trở nên dồi dào sức sống. Đáng tiếc, những nhánh Chi trinh đằng không biết được rằng, qua mấy hôm nữa, sinh mệnh của chúng sẽ kết thúc cùng với ngôi nhà cổ này.
Xuống dưới tầng hai tôi mới phát hiện ra Tiểu Sảnh đã đi làm rồi, nhưng cô ấy vẫn để cho tôi một phần điểm tâm. Ăn xong bữa sáng, tôi lượn một vòng từ tầng trên xuống tầng dưới, tuy điện đã cắt rồi nhưng nước vẫn chưa bị cắt, mấy ngày cuối chắc là vẫn có thể gắng trụ được.
Do không có điện, bữa trưa của tôi đành phải ra ngoài ăn. Nhưng so với bữa cơm tối qua Tiểu Sảnh nấu, bữa trưa này quả thực còn khó ăn hơn thức ăn của heo.
Buổi chiều không có việc gì làm, tôi đọc sách trong phòng một lúc, nhưng chỉ cần nhớ tới những cảnh tượng xảy ra trong căn phòng này tối qua, tôi thực sự chẳng có tâm trí đâu mà đọc nữa. Mãi tới sẩm tối, trong lúc tôi đang chuẩn bị ra ngoài ăn tối thì Tiểu Sảnh lại về sớm.
Tiểu Sảnh mặc một chiếc váy ngắn, tóc hơi ươn ướt, trên người tỏa ra mùi nước gội đầu thơm mát. Nhưng càng hấp dẫn tôi hơn chính là đồ ăn nhanh Kentucky, cô ấy xách trên tay. Cho dù từ trước tới nay tôi vốn rất ghét ăn đồ ăn nhanh kiểu tây, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, được ăn Kentucky quả là khá ổn.
Khi trời đã tối hẳn, chúng tôi thắp nến, tôi bất giác tự chọc ghẹo: “Cùng nhau ăn cơm dưới ánh nến, cái này chỉ được phục vụ trong nhà hàng cao cấp thôi đấy.”
Khi tôi coi như bên cạnh chẳng có ai ăn hết sạch phần đùi gà của mình, thì Tiểu Sảnh hầu như không động gì đến. Tôi quệt dầu trên miệng nói: “Tiểu Sảnh, em có thể ăn chút không, Bồ Tùng Linh tiên sinh đâu có viết về chuyện Nhiếp Tiểu Sảnh nhịn ăn giảm béo đâu.”
Nhưng cô ấy lạnh nhạt đáp: “Bởi vì Nhiếp Tiểu Sảnh vốn dĩ không giống người thường mà.”
Sau khi thu dọn bữa tối sạch sẽ, Tiểu Sảnh bỗng hỏi nhỏ tôi: “Đêm qua… tại sao anh không ở lại?”
“Cái này à…” Tôi cười bối rối nói: “Anh thấy em đã ngủ say rồi, tất nhiên không cần người bên cạnh nữa.”
Tiểu Sảnh không nói gì, chỉ hít một hơi thật sâu, ánh mắt cô ấy dường như còn giấu điều gì đó nhưng lại lảng tránh ánh mắt tôi.
Trầm ngâm dưới ánh nến hồi lâu, cô ấy đột nhiên lại nói chuyện: “Lần trước anh từng nói, anh lấy từ chỗ mấy sinh viên tới Hoang thôn kia rất nhiều đồ ngọc cổ đại.”
“Hỏi cái này làm gì?” Tôi có chút thấp thỏm bất an trả lời. “Những đồ ngọc đó lấy từ lòng đất Hoang thôn lên, giống như chiếc nhẫn đang trên tay anh.”
“Chúng thật sự có năm nghìn năm lịch sử sao?”
“Chuyên gia đều giám định qua rồi, chắc là vậy.”
“Có thể cho em xem không?” Cô ấy bước tới trước mặt tôi, nhìn vào mắt tôi nói: “Chỉ là xem thôi mà, không động gì đến đồ của anh đâu.”
Không, tôi làm sao có thể từ chối yêu cầu nhỏ nhoi đó của cô ấy chứ? Tôi gật đầu: “Được, chỉ cần lúc xem cẩn thận chút, nhất định không được làm hỏng những bảo bối này, càng không được để lộ tin tức về chúng ra ngoài.”
“Cái này em đương nhiên biết rồi. Hơn nữa, trừ anh ra, em cũng không có bạn nào khác.”
Tôi gật đầu, cầm lấy hai chiếc đèn pin, tôi và Tiểu Sảnh mỗi người một chiếc rồi đi lên tầng ba.
Bước lên cầu thang xoắn ốc tối om, Tiểu Sảnh theo sau bám chặt lấy tôi, ánh đèn pin của tôi mở đường, chúng tôi tới căn phòng cuối cùng trong hành lang trên tầng ba.
Tôi đã để lại đây một chiếc cầu thang, vừa vặn gác vào lỗ hổng trên trần nhà. Tôi dùng đèn pin soi lên trên nói: “Phải từ đây leo lên, em có sợ không?”
Gan cô ấy to hơn tối qua nhiều: “Không sợ.”
Tôi gật đầu, một tay nắm lấy đèn pin, một tay vịn cầu thang, khó khăn lắm mới chui được vào căn gác xép. Sau đó, Tiểu Sảnh cũng theo sau leo lên trên đó, tôi nắm chặt tay cô ấy, tiện thể kéo luôn cô ấy lên.
Căn gác tối tăm ngập tràn không khí đáng sợ, cửa sổ đã bị Chi trinh đằng che kín, một ánh trăng cũng không lọt được vào. Tôi chỉ còn cách dùng đèn pin quét một vòng, mãi lâu sau mới tìm thấy chiếc cặp đựng đồ ngọc, cảm giác thật khó hiểu, giống như đang đào trộm mộ vậy.
Trong phạm vi ánh đèn thu hẹp lại, tôi vất vả mở chiếc cặp ra, cẩn thận rón rén lấy ra từng đồ ngọc trong đó: ngọc hổ phách, ngọc bích, búa ngọc, rùa ngọc và dao găm ngọc. Ánh đèn pin rọi vào những bảo bối này, bề mặt đồ ngọc tỏa ra ánh sáng phản quang kì dị, Tiểu Sảnh vuốt nhẹ lên ngọc hổ phách, tay cô ấy bắt đầu run rẩy.
Tôi nhìn lại xung quanh đang tối đen như trong địa cung, bỗng nhiên nhớ tới bốn sinh viên hoặc là đã chết, hoặc là mất tích, hoặc là thần kinh. Khi họ vào địa cung thần bí trong lòng đất tại Hoang thôn, lúc đối diện với những đồ ngọc này, chắc là cũng có cảm giác tương tự.
Tiểu Sảnh bỗng thở dài nói: “Bây giờ em tin rồi, chúng thực sự là đồ ngọc của năm nghìn năm trước.”
“Tại sao?”
“Bởi vì cảm giác trên tay em.” Cô ấy chuyển đồ ngọc sang tay bên kia, lùi lại một bước nói, “Đúng, khi tay em chạm vào những đồ ngọc này, em thực sự cảm nhận được tuổi của chúng.”
“Đây chính là giác quan thứ sáu của phụ nữ?”
"Có lẽ vậy, anh nhanh cất chúng đi, bảo bối năm nghìn năm trước, em không dám chạm vào nữa đâu.”
Tôi gật đầu, lại lấy báo cũ và bọt xốp bọc chúng lại, cất những đồ ngọc này vào trong cặp.
Sau đó, tôi kéo tay Tiểu Sảnh nói: “Đợi đã, anh còn cho em xem mấy thứ nữa.”
Dưới ánh sáng đèn pin, tôi tìm thấy chiếc bàn trang điểm, thì thầm nói: “Đây là bàn trang điểm trước đây của Nhược Vân.”
“Sao không có gương?,” cô ấy không nhìn rõ khung gương trong bóng tối.
“Bị vỡ lâu rồi.”
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hiểu ý nói: “Giống như đêm qua, cô ấy và chồng.”
“Đúng, một tấm gương bị vỡ, sao có thể liền lại được?”
Nói xong, tôi mở hai ngăn kéo phía dưới, lấy ra những bức ảnh cũ của Nhược Vân và gia đình Âu Dương cùng với hai quyển sách của Trương Ái Linh. Dưới ánh đèn pin mù mờ, Tiểu Sảnh từ từ lật những tấm ảnh và trang sách, nhìn khuôn mặt của Nhược Vân trong ảnh, cô ấy buồn bã nói: “Cám ơn anh, cám ơn anh đã cho em thấy những thứ này, dường như em có thể hít thở hương trên người cô ấy rồi.”
“Đúng thế, anh cũng có cảm giác như vậy.”
“Không, cảm giác của anh và của em không giống nhau. Bởi vì em là phụ nữ, chỉ có phụ nữ mới cảm nhận được nỗi đau của Nhược Vân… Trước khi cô ấy gả cho nhà Âu Dương, nhất định là một cô gái có rất nhiều hoài bão, cô ấy vì tình yêu sâu đậm với chàng trai Âu Dương khôi ngô tuấn tú mới hi sinh bản thân gả vào chiếc cũi nhốt tù này.”
“Em bảo quán trọ Hoang thôn là cũi nhốt tù?”
“Lẽ nào không phải sao? Gia đình Âu Dương bảo thủ và khép kín nhường vậy, cho dù là họ dọn tới Thượng Hải đi chăng nữa cũng không dọn theo cả ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ ở Hoang thôn. Đúng, ngôi nhà này đã biến thành Tiến Sĩ Đệ, bởi vậy mới lấy tên là quán trọ Hoang thôn, chẳng qua là dựng lại một Hoang thôn thu nhỏ trên đất Thượng Hải mà thôi.”
Cô ấy thực sự nói rất có lí, tôi cũng gật đầu nói: “Gả vào nhà Âu Dương cũng đồng nghĩa với việc mất đi tự do, bị giam cầm trong Hoang thôn thu nhỏ?”
“Đúng, sau khi Nhược Vân gả vào quán trọ Hoang thôn, nhất định đã trải qua rất nhiều đau khổ, nhưng cô ấy không muốn biểu hiện ra ngoài, đành phải thông qua ánh mắt hướng ra ngoài cửa sổ, thông qua những trang sách của Trương Ái Linh.”
Tiểu Sảnh lại thở dài, sau đó đem tất cả số ảnh cũ này cùng sách để lại vào ngăn kéo.
“Được rồi, chúng ta đi thôi.” Tôi nhẹ nhàng kéo cô ấy đi tới đầu bên kia của căn gác, bỗng nhiên ánh đèn soi vào một bóng đen cao to.
“Đó là cái gì?” Tiểu Sảnh lập tức vồ lấy tay tôi.
Tôi cẩn thận nhìn xem mới thốt lên được nói: “Không có gì, là cái tủ quần áo.”
“Tủ quần áo? Bên trong có quần áo của Nhược Vân?”
Có lẽ, do phụ nữ bẩm sinh đã trung thành với tủ quần áo, cô ấy lập tức chạy tới bên chiếc tủ. Dưới ánh sáng đèn pin, cô ấy từ từ mở cánh tủ ra, mùi ẩm mốc khiến chúng tôi đều quay đầu đi.
Một lúc sau, ánh đèn soi vào bên trong tủ, Tiểu Sảnh đột nhiên hét lên thất thanh: “Có người chết!”
Tôi lập tức nắm chặt lấy tay cô ấy nói: “Không, bên trong treo quần áo.”
“Cái gì?” Tiểu Sảnh rốt cuộc cũng đã định thần lại, cẩn thận nhìn vào trong tủ, dưới ánh đèn pin mờ ảo, vài chiếc áo khoác đen trông thật giống người chết treo.
Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén thò tay vào trong, sờ vào một chiếc sườn xám bắt mắt, lụa tơ tằm đều đã giòn tan rơi rụng, cô ấy đành phải bỏ xuống. Cô ấy lại sờ chiếc áo bên cạnh, là một chiếc áo khoác len màu đen kiểu dáng nữ. Xem ra chất liệu và đường kim mũi chỉ đều rất tốt, vào thời đó chắc hẳn là một thứ xa xỉ.
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh hình như sờ thấy gì đó trên áo, tay cô ấy dừng lại trước túi áo, bên trong hình như có cất giấu vật gì. Cô ấy lập tức thò tay vào trong túi, chiếc túi xem ra rất to, hình như nuốt chửng nửa cánh tay của cô ấy.
Cô ấy lôi một cuốn sổ tay trong túi áo ra.
Ánh đèn pin soi lên cuốn sổ, Tiểu Sảnh cẩn thận rón rén bưng nó lên, rõ ràng rất phấn khích, cô ấy hào hứng nói: “Anh xem, đây là cái gì?”
“Cuốn sổ tay giấu trong túi áo?”
Đây là một cuốn sổ bìa da cứng màu đen, chắc là sản phẩm của hơn năm mươi năm trước. Tôi nhẹ nhàng mở cuốn sổ ra, trên chương đầu tiên xuất hiện chữ viết bằng tay duyên dáng.
Nhật kí quán trọ Hoang thôn.
Dưới dòng chữ này còn có cả chữ kí: Nhược Vân.
“Trời ơi! Đây chính là nhật kí của Nhược Vân năm đó để lại.” Tiểu Sảnh thất thanh kêu lên, cô ấy thò tay ra vuốt ve trang sách, chạm vào chữ viết bằng bút mực đen của Nhược Vân ghi lại, “Hóa ra cô ấy giấu nhật kí trong tủ quần áo, thật là khó tin.”
“Có thể vốn dĩ không phải do cô ấy giấu.” Lúc này tôi gập cuốn sổ lại, tôi bắt đầu hơi lo lắng nói: “Ở trên gác thực sự bất tiện, chúng ta xuống phòng dưới tầng hai từ từ xem nhé.”
Tiểu Sảnh cũng gật đầu, vậy là chúng tôi đem theo cuốn sổ nhật kí leo xuống cầu thang rời khỏi căn gác xép.
Chúng tôi vội vàng trở lại căn phòng dưới tầng hai,