Từ Thế Xương làm gì cũng chẳng nên hồn, nhưng lo liệu khoản ăn uống lại rất để ý.
Rượu là Hồ Bích nhất phẩm, hộp đồ ăn là của lầu Phù Dung, bên trong gồm bánh tô lạc, bánh mè cuộn, bánh chẻo tôm ngọc lục bảo và cháo ngọc bích, lại điểm thêm chút mứt hoa quả chua ngọt, y còn đặc biệt phân phó đầu bếp phủ Thái sư hầm một chén yến sào, tất cả đều là những món ngày thường Bùi Trường Hoài thích ăn.
Y bày từng món trước mặt Bùi Trường Hoài, cười nói: “Thế nào? Thấy ta tới, huynh có vui không hả?”
Bùi Trường Hoài cười, đẩy xe lăn tới bên cạnh Từ Thế Xương, ngồi xuống cùng y.
Y bảo: “Ngươi đến được, ta đương nhiên là vui mừng, ngồi đi.”
Từ Thế Xương nhìn tấm chăn gấm phủ hai chân y, khóe mắt nhất thời chua xót, đưa tay lên dụi mắt, cố kìm nước mắt.
Y đáp: “Ăn bao nhiêu tùy thích. Huynh vẫn còn đang bệnh không thể uống rượu, rượu này là ta tự chuẩn bị cho mình đấy.”
Bùi Trường Hoài không có khẩu vị mấy, nhưng không thể phụ tâm ý của Từ Thế Xương, y cũng ăn không ít.
Lòng Từ Thế Xương không vui vẻ nổi, một mực ngồi uống rượu đến mức say khướt, Bùi Trường Hoài liền cầm lấy bình rượu, không cho y uống tiếp nữa.
Từ Thế Xương không chịu, bắt lấy tay Bùi Trường Hoài, còn chưa mở miệng, nước mắt đã chảy dài.
Y khóc nói: “Trường Hoài, huynh để ta uống đi, say rồi thì càng tốt. Ta luôn miệng nói muốn giúp huynh, cuối cùng làm gì cũng chẳng xong, ta, ta để huynh phải chịu tội lớn đến vậy… Huynh nói, huynh nói xem, ta có phải phế vật hay không?”
Bùi Trường Hoài ấm áp nói: “Cẩm Lân, ngươi không cần làm gì cả, mấy chuyện này không liên quan đến ngươi.”
Từ Thế Xương lơ mơ nói: “Ta không cần làm gì cả, bởi vì ta chính là phế vật! Ta thừa biết, ta, ta…”
Câu kế tiếp, y nói không nên lời.
Y thừa biết chuyện phủ Thái sư tới phủ Thượng thư cầu hôn có điểm kỳ quái, thừa biết lần này Bùi Trường Hoài tới hoàng cung thỉnh tội, đương nhiên cũng biết cha y ở sau lưng giật dây, nhưng lại không dám nói ra là chính phụ thân mình tính kế Bùi Trường Hoài.
Y sợ Bùi Trường Hoài nghe xong sẽ ghét bỏ y, mà thực ra ghét bỏ y cũng không quan trọng, y chỉ sợ Bùi Trường Hoài sẽ trở mặt đối phó cha y, khi ấy y kẹt giữa hai chữ hiếu và nghĩa, thực lòng y không biết mình phải nên đứng về phía ai.
Từ Thế Xương có cảm giác mình sắp điên tới nơi: “Tại sao phải thế này? Tại sao, tại sao… Trường Hoài ca ca, tới tận bây giờ ta vẫn còn nhớ hồi còn nhỏ huynh tới phủ Thái sư, ta và huynh cùng các ca ca của ta, chúng ta cùng nhau lên núi đi đạp thanh, lội xuống nước bắt cá… Quý phủ cử người tặng một bộ cờ đấu thú bằng ngà voi, ai cũng chơi không giỏi, chỉ có huynh là lợi hại nhất, đến cả cha ta cũng phải khen huynh thông minh. Ta lớn đến thế này, cha ta còn chưa một lần khen ta, ông nói huynh là người tài tú hiếm có trong thế hệ của ta, bắt ta phải học theo huynh, nhưng, nhưng sao lại thay đổi vậy chứ?”
Y gục xuống mặt bàn, nước mắt giàn giụa: “Trước đây tốt đẹp như vậy, tại sao lại thay đổi cả rồi?”
Nghe lời y nói vẫn hệt như một thiếu niên khờ dại, Bùi Trường Hoài nhàn nhạt cười, giơ tay lau đi nước mắt trên khóe mắt y: “Cẩm Lân, ngươi không thay đổi là tốt rồi.”
“Không, ta cũng thay đổi rồi, ta trở nên càng phế vật hơn!”
Bùi Trường Hoài bỗng chốc cười ra tiếng, Từ Thế Xương lại càng khóc to hơn, vừa khóc vừa tàn nhẫn tự mắng mình một lượt, rồi đoạt lấy bầu rượu, ừng ực uống từng hớp một.
Rượu xộc cả lên não, y cũng say khướt rồi, mượn rượu làm càn mà níu chặt lấy tay Bùi Trường Hoài, nói: “Trường Hoài ca ca, huynh đối xử tốt với ta, ta đều biết. Huynh yên tâm, Từ Thế Xương ta tuy là một tên hỗn thế ma vương, nhưng ta cũng biết thế nào là tình, thế nào là nghĩa! Ta, ta đối xử thật lòng với huynh, vĩnh viễn không thay đổi, cho dù sau này có phải ch/ết vì huynh, ta cũng cam tâm tình nguyện.”
“Gì mà ch/ết với không ch/ết, đừng nói linh tinh.” Bùi Trường Hoài quở trách một câu, thấy y đã say lúy túy liền gọi người tới đưa Từ Thế Xương lên sập nghỉ ngơi.
Tên nhãi này tới thăm bệnh, lại dày vò bệnh nhân phát mệt, tới tối tỉnh rượu kha khá, nô tài Hầu phủ mới đưa Từ Thế Xương về Hầu phủ.
Giấc này Từ Thế Xương ngủ thẳng đến tận buổi trưa hôm sau, đầu nặng như đeo chì, lại lề mề trên giường một lúc mới dậy. Y nghe nói phụ thân
bãi triều trở về, liền muốn tới thỉnh an, lúc đi ngang qua hành lang liền bị hai tên người hầu chặn lại, nói Lão gia phân phó y đi tiếp khách.
Từ Thế Xương mù tịt: “Là ai tới?”
Sau khi tới lầu kịch nhỏ, gánh diễn hí khúc được quý phủ mời đến đã bận rộn vào vai rồi.
Ngồi trong lầu kịch nhỏ có Từ Thủ Chước, bên cạnh là hai vị huynh trưởng của Từ Thế Xương, còn có vài vị quan văn đều là bậc cha chú của y, nhưng trên tôn vị khách quý còn cả một vị công tử trẻ tuổi.
Người nọ mặc một thân y bào trắng tuyết, mặc dù trông không đẹp đẽ xuất chúng, nhưng dáng vẻ thanh cao, mặt mày thường treo nụ cười đem đến cho người khác một cảm giác như có gió xuân thổi.
Nếu chỉ nhìn ăn vận và khí chất, thực sự có ba phần tương tự Bùi Dục.
Người này Từ Thế Xương cũng biết, chính là đại công tử Tạ Tri Chương của Tiêu Vương phủ, huynh thứ của Thế tử gia Tạ Tri Quân.
Tự cổ chí kim, bao nhiêu huynh đệ trong nhà đều vì quy củ đích thứ mà sinh hiềm khích lục đục, ví như Từ Thế Xương y, y là con trai vợ cả của Từ gia, từ nhỏ hoành hành ngang ngược thành tính, không mấy thân cận với mấy ca ca do di nương sinh.
Nhưng tình cảm của Tạ Tri Chương này và Tạ Tri Quân lại vô cùng tốt, đặc biệt là Tạ Tri Chương, hắn vô cùng thương yêu đệ đệ nhà mình.
Tạ Tri Quân bị Hoàng thượng giam lỏng ở Thanh Vân Đạo quán mười năm, hằng năm cứ đầu xuân, Tạ Tri Chương sẽ lại tới Đạo quán thăm Tạ Tri Quân, không quản gập ghềnh đường xa mà vượt mưa vượt gió.
Năm nay Tiêu Vương phi tới Thanh Vân Đạo quán niệm kinh tu hành, Tạ Tri Chương cũng đi cùng, hai ngày này vừa mới về kinh nên tới phủ Thái sư bái phỏng.
Bởi vì Tạ Tri Chương say mê hí kịch nên Từ Thủ Chước thỉnh hắn tới nghe thử khúc mới của gánh hát, nhất thời mới khua chiêng gõ trống, vô cùng náo nhiệt.
Từ Thế Xương tới bái phỏng chư vị khách quý trước. Bởi y không thích Tạ Tri Quân, nên cũng không thích Tạ Tri Chương nổi, cả bữa yến tiệc không nói lời nào, chỉ câu được câu chăng nghe bọn họ nói chuyện.
Vừa lúc nghe bọn họ nhắc tới Triệu Quân, Tạ Tri Chương nói: “Đầu tiên được phong làm Đại tướng quân cánh tay phải, ban cho phủ Tướng quân,
mặc dù chỉ là một chức hão, nhưng cũng đủ để nhìn ra Hoàng thượng coi trọng hắn. Ta vốn tưởng Triệu Quân sẽ ở lại bên
cạnh Hoàng thượng chỉ huy cấm quân, ai ngờ hắn lại vào Bắc doanh, còn nhậm chức Đô thống…” Hắn dừng lại cười một tiếng: “Bây giờ Chính Tắc Hầu ngã ngựa, Vũ Lăng Quân cũng coi như vật trong tay hắn. Thái sư, môn sinh này của ngài đúng là khó lường, có dịp nhớ giới thiệu cho tiểu chất, để ta có cơ hội học tập hắn một phen…”
Từ Thủ Chước khẽ cười không nói.
Một quan viên ngồi cạnh nói: “Hôm nay thượng triều, Hoàng thượng còn cố ý khen thưởng Đô thống Triệu Quân. Khoảng thời gian này hắn nghiêm tra tham ô trong Bắc doanh, chỉnh đốn kỷ cương quân ngũ, hiện giờ phó tướng Lưu Hạng đã nhận tội đền tội, Hoàng thượng long tâm vui vẻ, phong Triệu Quân làm Kỵ Đô Úy, mặc dù nói là một huân vị, cũng không được coi là thăng chức, nhưng liên tiếp phong quan thêm tước, có ý muốn để Triệu Quân trở thành nhân vật trọng yếu tham dự việc quân cơ. Từ khi Đại Lương khai quốc tới nay, cũng chẳng có mấy người có thể một bước lên mây xanh như hắn, thực sự là tiền đồ vô lượng.”
Nói xong Triệu Quân, sự chú ý của Tạ Tri Chương không còn tập trung vào hắn nữa, ngược lại hỏi: “Ồ? Đã định rồi sao? Lưu Hạng là nhận tội đền tội?”
Mấy người đang ngồi liếc mắt nhìn nhau, hiểu chuyện không nói.
Bọn họ đều biết chuyện Chính Tắc Hầu quỳ xuống thỉnh tội, mà cái quỳ này của Bùi Trường Hoài khiến chuyện Lưu Hạng ch/ết không phải là vì trúng độc nữa, mà là nhận tội đền tội.
Nhận tội đền tội, Hoàng thượng lại khen thưởng phong Triệu Quân làm Kỵ Đô Úy, nên phạt đã phạt, nên thưởng cũng đã thưởng, trận phong ba điều tra tham ô cũng hoàn toàn kết thúc, từ ấy bụi lửa dẹp yên.
Tạ Tri Chương cười đến bí hiểm khó dò, nói: “Chính Tắc Hầu muốn thỉnh tội, còn quỳ từ Ngọ Môn tới Minh Huy điện, náo loạn đến kinh thiên động địa, chỉ sợ người khác không biết. Lòng người trong Vũ Lăng Quân đều có tính toán riêng, đặc biệt là các lão thần lão tướng có liên quan tới Lưu Hạng, ngoài mặt thì thấy Bùi Trường Hoài vì bọn họ mà hạ mình quỳ gối, sao có thể không cảm tạ? Thái sư à, những ngày tháng sau này của Triệu Quân ở Vũ Lăng Quân e rằng không dễ dàng.”
Từ Thế Xương nghe xong, trong lòng bỗng sáng bừng, sao mình lại không nghĩ tới còn một tầng mưu kế này ở bên trong chứ?
Ban đầu y cho rằng Bùi Trường Hoài chỉ vì bảo hộ tính mạng của mình nên mới tới chỗ Hoàng thượng thỉnh tội, xem ra Bùi Trường Hoài không chỉ bảo vệ chính mình, mà còn bảo vệ được cả các tướng sĩ đi theo lão Hầu gia trong tay Triệu Quân.
Lần này Triệu Quân chỉnh đốn Bắc doanh, tuy nói thủ đoạn như lôi đình, nhưng cũng kéo không ít thù hận, đắc tội không biết bao nhiêu người.
Nếu hắn tra đến cùng, nhổ cỏ tận gốc căn bản cũng chẳng có gì đáng sợ, hỏng là hỏng ở chỗ Lưu Hạng ch/ết, Hoàng thượng định tội, có ý không muốn Triệu Quân tiếp tục điều tra nữa, đợi đám lão tướng Bắc doanh thở phào nhẹ nhõm rồi, há lại có thể để Triệu Quân được yên thân?
Từ Thế Xương trong lòng thầm than, Trường Hoài ca ca quả nhiên là thông minh, rõ ràng bị vu oan ngã đau đến vậy mà vẫn có thể phản công từ thế hiểm nguy nhất.
Mấy lão tướng Bắc doanh ban đầu đã chẳng coi Triệu Quân là cái thá gì, sau bị Triệu Quân kiềm chế kiểm tra trong Bắc doanh, bây giờ hẳn đã biết người này lợi hại, chắc chắn sẽ không coi thường hắn nữa, giả sử sau này có muốn ngáng chân hắn, Triệu Quân hẳn cũng phải chịu đủ.
Lòng Từ Thế Xương thiên vị Bùi Trường Hoài không phải giả, nhưng y cũng cực kỳ thưởng thức tài hoa của Triệu Quân này, nên không khỏi âm thầm lo lắng cho tình cảnh tương lai của hắn.
Trong yến tiệc lại có một người tiếp tục nói: “À đúng rồi, hạ quan nghe nói Tiêu Vương phủ chuyện vui đã gần, Đại công tử sắp cưới vợ rồi sao? Không biết là thiên kim nhà ai lại lọt được vào mắt xanh của công tử?”
Tạ Tri Chương khẽ cười hai tiếng.
Từ Thế Xương sầu cái này lo cái kia, phần sau của buổi yến tiệc nói gì, y cũng chẳng để trong lòng nữa.
Triệu Quân nhậm chức Kỵ Đô Úy, Từ Thế Xương nên đi chúc mừng, y gửi bái thiếp tới phủ Tướng quân, quản gia Vệ Phúc Lâm lại nói dạo gần đây Triệu Quân vẫn luôn ở lầu Phù Dung, đã nhiều ngày không về, sau đó không ít người tới chúc mừng đều tới luôn lầu Phù Dung bồi rượu hắn rồi.
Từ Thế Xương lại tới lầu Phù Dung.
Y vừa hạ kiệu, vài vị tiểu nương tử đã nhiệt tình ào tới, nhỏ giọng giận dỗi y sao lâu ngày chẳng tới, Từ Thế Xương cười ôm các nàng vào trong lòng: “Không phải đã tới rồi đây sao?”
Vừa mới bước vào Phương Đình viện của lầu Phù Dung, Từ Thế Xương đã nghe tiếng đám người đang kinh hô, ngay sau đó lại hò hét, nghe chừng rất náo nhiệt.
Từ Thế Xương nhìn theo ánh mắt của đám người, chỉ thấy một thân ảnh cao lớn thẳng tắp đứng ở lan can ban công phía trên. Trường kiếm sáng ngời như tuyết, bào đen cuồn cuộn tựa mây, không phải Triệu Quân thì là ai?
Tay hắn cầm một bầu Hồ Bích nhất phẩm, ngửa đầu lại uống một ngụm rượu, bầu rượu đã rỗng, hắn lại tiện tay ném xuống, người đã say mèm cả, người cũng lảo đảo lắc lư.
Quản sự lầu Phù Dung âm thầm rớt một tầng mồ hôi, phân phó người hầu trái phải chuẩn bị đón lấy, ngàn vạn đừng để hắn rơi xuống.
Triệu Quân lại vẫn mơ hồ không để ý, hắn đứng giữa gió lạnh dưới trời đêm, ánh mắt theo kiếm đảo qua đám người một lượt, bỗng chốc cười đến phong lưu anh tuấn.
“Thơ cũng đã đề, kiếm cũng đã so rồi.” Triệu Quân tiện tay vung kiếm, chỉ vào vị quản sự nọ, nói: “Bản tướng quân muốn ngươi chặt hết hoa mai trong viện này, ngươi làm hay không?”