--- SAU KHI MẸ KẾ TỈNH LẠI - THƯ THƯ THƯ ---
????????????????????
CHƯƠNG 1.
Người Dịch: Lan Thảo Hương.
Thịch, thịch, thịch——
Ninh Hương ngồi ở mép giường, trên tay cầm chặt chiếc gương tròn khung sắt in hình uyên ương song hỷ ở mặt sau. Cô nhìn bản thân tuổi trẻ ở trong gương đến xuất thần, mặc kệ nhịp tim đang ngày càng đập nhanh hơn và mạnh hơn.
Mới mười phút trước, cô vẫn còn là một u hồn đang lang thang trên cõi đời, đang lơ lửng giữa đầu trang giấy hay góc bàn thêu, yên lặng nhìn những ấm lạnh bi hoan thuộc về người khác. Cô vốn tưởng rằng kết cục cuối cùng của mình sẽ là thần hồn tan biến, hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này và không lưu lại bất cứ dấu vết tồn tại nào. Không nghĩ đến, bản thân đã lang thang nhiều năm như vậy, ở sau khi rơi vào bóng tối vô tận và mở mắt ra, cô lại trở về tuổi thanh xuân của mình.
Trong gương tròn là dáng vẻ năm mười chín tuổi của cô, trên mặt vẫn chưa thoát đi vẻ non nớt cùng với da dẻ trắng nõn như trứng gà bóc. Cả gương mặt trông rất non, từ đường chân mày, viền mắt và môi đều rõ ràng tựa như vẽ, đủ để treo lên bốn chữ "dịu dàng tinh xảo".
Ở Mộc Hồ trấn, nếu không phải cô có dung mạo xinh đẹp, tính tình lại ôn nhu động lòng người, khi cười lên nhìn rất ngọt và ở trong mười dặm tám hương nổi danh là cô gái đảm đang và tài giỏi thì liệu Giang Kiến Hải đã lên làm lãnh đạo của một nhà máy lớn có thể đồng ý cưới một cô gái ở thôn nhỏ lại còn mù chữ như cô không?
Nhớ lại kiếp trước, khi Giang Kiến Hải cưới cô về làm vợ kế, anh ta đã đảm nhận vị trí phó xưởng trưởng một nhà máy tơ lụa ở Tô thành. Bởi vì từ nhỏ đã được đi học đọc sách, cộng thêm không ngừng học tập và bồi dưỡng khi làm ở trong xưởng, cho nên các phương diện của anh ta luôn nằm trên các nông dân khác.
Từ trước đến nay đàn ông luôn thực tế hơn phụ nữ, chẳng qua họ không mấy khi bộc lộ ra cảm xúc thật của mình. Sau khi người vợ đầu tiên của Giang Kiến Hải qua đời vì bạo bệnh, anh ta đặt yêu cầu không hề thấp vào người vợ thứ hai của mình. Anh ta một lòng muốn tìm một người biết chữ và có kiến thức, tốt nhất là một cô gái trong thành phố.
Tất nhiên, một trong những yêu cầu đầu tiên của anh ta đó là không cân nhắc đến người kết hôn lần hai.
Thế nhưng bản thân Giang Kiến Hải là người kết hôn lần hai, anh ta không chỉ đã kết hôn một lần mà vợ trước của anh ta sau khi qua đời còn để lại ba đứa con. Có khá nhiều cô gái có điều kiện tốt và rất hài lòng với điều kiện riêng của Giang Kiến Hải, nhưng vừa nghe phải làm mẹ kế cho ba đứa trẻ, họ lập tức lắc đầu không chịu.
Ninh Hương cũng không muốn làm mẹ kế, chính gia đình cô mới là người rất hài lòng với Giang Kiến Hải.
Sau khi bà mối tìm tới nhà, mẹ cô là Hồ Tú Liên ngày nào cũng lải nhải bên tai cô rằng phụ nữ kết hôn rồi ai mà không phải nuôi con, nuôi mình sinh cũng là nuôi, nuôi con người khác cũng là nuôi. Hơn nữa, đàn ông có bản lĩnh, sau khi cưới có chỗ dựa mới là điều vững chắc nhất. Khi đó Ninh Hương nghe cái hiểu cái không, chỉ biết là bố mẹ cô muốn tìm một chỗ dựa cho gia đình.
Vào những năm 1970, công nhân là giai cấp đứng đầu đất nước, mà phó trưởng xưởng chính là lãnh đạo đường đường chính chính. Gả cho người như vậy, trong nhà cũng sẽ được nhờ rất nhiều. Mặc kệ đi đến đâu cũng có thể được người khác kính trọng và không phải lo lắng về cuộc sống sau này. Huống hồ, Giang Kiến Hải trước khi kết hôn đã được sắp xếp đi khảo sát học tập. Tổ chức đã nói, đợi anh ta học tập một năm trở về sẽ được thăng lên làm xưởng trưởng, đó chính là lãnh đạo cao nhất đấy.
Cả đời của Ninh Hương chưa bao giờ sống cho chính bản thân mình, cô bị buộc phải nghỉ học để chăm sóc em trai em gái khi học lớp hai. Sau đó ngày ngày đêm đêm làm thêu thùa để kiếm tiền nuôi gia đình, và giờ ngay cả hôn nhân cũng đơn thuần vì để trong nhà có cuộc sống tốt hơn, tìm được một đối tượng có thể làm chỗ dựa cho gia đình.
Cô và Giang Kiến Hải quen biết nhau ở buổi xem mắt. Giang Kiến Hải đối với việc xem mắt cô không mấy tích cực, bởi vì từ đáy lòng anh ta không muốn tái giá với một cô gái nông thôn mù chữ. Trước đó anh ta cũng đã đi xem mắt mấy cô gái nông thôn, bọn họ đều sẵn lòng kết hôn với anh ta nhưng anh ta lại không ưng. Sở dĩ đồng ý kết hôn với Ninh Hương là vì anh ta tự nhiên nhận ra việc tìm mẹ cho ba đứa con của mình không dễ dàng chút nào. Điều kiện tốt thì anh ta tìm không thấy, mà điều kiện không tốt thì anh ta lại chướng mắt. Trong số tất cả các điều kiện không tốt, Ninh Hương xem như là người nổi bật nhất.
Dung mạo của Ninh Hương xinh đẹp, là một cô gái dịu dàng điển hình của con gái vùng sông nước Giang Nam. Ngũ quan của cô rất tinh xảo, cười lên có cảm giác ngọt ngào. Mặc dù chỉ biết nói mấy lời thông tục nhưng được công nhận là người đảm đang, tài giỏi và hiền thục trong mười dặm tám hương quanh đây. Hơn nữa, tính tình của Ninh Hương mà đi làm mẹ kế cho ba đứa con của anh, tự nhiên sẽ không đối xử tệ với bọn nhỏ. Anh ta ngẫm đi nghĩ lại và cảm thấy mình không chỉ đơn giản là tìm vợ, mà còn là tìm mẹ cho ba đứa trẻ nữa. Vậy nên sau khi cân nhắc đủ điều, cuối cùng anh ta đã đồng ý cọc hôn sự này.
Từ xưa đến nay, mẹ kế không thể tách rời hai chữ "xấu xa" và "ác độc", và Ninh Hương chưa từng khờ dại cho rằng làm mẹ kế là điều dễ dàng. Thế nên cuộc sống gà bay chó chạy sau khi cưới đã chứng minh điểm này, ba đứa trẻ nhà họ Giang rất bài xích cô và xem cô như kẻ thù.
Trong nửa đời sau sau khi cưới, cuộc sống của Ninh Hương chính là—— Giúp đỡ nhà mẹ đẻ, dùng sự nhẫn nại và chân thành để cảm hóa ba đứa con riêng, trở thành một người mẹ kế tốt, kính trọng mẹ chồng cay nghiệt. Sau khi mẹ chồng mất lại dẫn theo các con riêng vào thành phố hầu hạ Giang Kiến Hải.
Cô đã kính dâng ra cả đời mình nhưng nhận lại được là gì?
Đó là sự khinh thường từ trong ngôn từ của những người em đã thành tài, đó là "tình yêu" của Giang Kiến Hải coi cô như một bảo mẫu, đó là các con riêng chưa bao giờ gọi cô một tiếng mẹ sau khi cô đã nuôi dạy chúng thành tài. Đó là sau khi Giang Kiến Hải qua đời, các con riêng đã chôn cất hắn với mẹ ruột của chúng. Đó là cuối đời cô nằm trong căn phòng trống, nghe tiếng tuyết rơi xào xạc và cô độc lạnh lẽo trút xuống một hơi cuối cùng.
Cô chết sau khi bị vắt kiệt "giá trị phụ nữ" cuối cùng, thứ "giá trị" duy nhất mà cô không bị ép có lẽ cả đời không sinh con. Cũng không phải cô không nghĩ sinh, mà là cô buộc phải từ bỏ vì mong muốn gia đình hòa thuận và hạnh phúc.
Mà cô đâu chỉ là từ bỏ quyền sinh dục của mình, cô từ bỏ là cả một đời của mình
"Bụp", Ninh Hương giật bắn người. Cô định thần lại, quay đầu nhìn qua và thấy ba đứa con riêng đang ghé vào cửa phòng nhìn lén cô, chúng vô tình đánh ngã cái kệ chậu rửa mặt ở trong góc tường. Cái kệ được dán chữ song hỷ màu đỏ và chiếc chậu tráng men đổ ngã ngay cạnh cửa, bên cạnh là một chiếc khăn mặt hơi mới. Tất cả đều là đồ mới mua khi tổ chức đám cưới, lúc trước nhìn có bao nhiêu cảm giác vui mừng thì giờ lại cảm thấy rất chướng mắt.
Ba đứa trẻ thấy Ninh Hương bị kinh động liền xoay người lao ra ngoài mà không nhặt kệ, chậu và khăn mặt lên. Bọn chúng nhanh như chớp chạy đến trước mặt bà nội Lý Quế Mai, vừa chống nạnh vừa thở nói: "Bà nội, cô ta đã tỉnh lại….".
Ninh Hương đã tỉnh lại, hoàn toàn tỉnh lại.
Thay vì đứng dậy đi nhặt khăn mặt, chậu và đỡ cái kệ lên, cô thu hồi ánh mắt, giơ tay chạm nhẹ vào vết thương đã được quấn gạc trên trán. Sau đó đặt chiếc gương trên tay xuống, đứng dậy đi đến trước cuốn lịch treo tường vừa nghe mùi hoa quế từ cửa sổ bay vào vừa cẩn thận phân biệt thời gian hiện tại.
Bây giờ đang