Tấn bị kịch ở BirlstoneLàng Brirlstone là một nơi thưa thớt những căn nhà nhỏ bé nửa gỗ, nửa gạch ở bìa phía bắc Sussex.
Trong hàng thế kỷ trước, ngôi làng vẫn giữ nguyên phong cách cổ xưa, nhưng vào khoảng vài năm gần đây, đã có nhiều địa chủ giàu có đến dựng những biệt thự ở chung quanh.
Trong các cánh rừng bọc theo bờ của khu rừng lớn Weald chạy dài mãi đến tận chân những ngọn đồi đá vôi ở bờ biển.Lâu đài nằm cách làng khoảng nửa dặm, trong một khu vườn cu nổi tiếng về những cây giẻ gai cực lớn.
Một phần của tòa lâu đài này đã đuợc dựng lên từ thời Thập tự chinh lần thứ nhất.
Năm 1534, một trận hỏa tai đã thiêu trụi tất cả.
Một số gạch đá ám khói còn sót lại, đến triều vua James I, đã đuợc dùng để xây nên một tòa lâu đài khác trên nền của tòa lâu đài cu.
Tòa lâu đài mới này với những đầu hồi chi chít và những khuôn cửa sổ có lắp những mảnh kích hình quả trám, gợi lại hình ảnh của nền kiến trúc vào thế kỷ thứ XVII.
Về hai đuờng hào trước đây thì nay chỉ còn lại đuờng bên trong.
Đuờng hào ngoài đã đuợc tát khô, và bây giờ trở thành một mảnh vườn trồng rau.
Đuờng hào còn lại bao quanh cả tòa lâu đài dài, rộng đến 40 feet nhưng sâu chỉ vài feet.
Nước trong hào là từ một dòng sông nhỏ chảy vào, nên không hôi thối.
Những cửa sổ của tầng dưới cung chỉ cao hơn mặt nước khoảng 1 foot.
Lối đi duy nhất để vào lâu đài là một cây cầu rút, đã hư hỏng từ lâu.
Nhưng người chủ lâu đài hiện nay cho sửa chữa lại để buổi sáng thì hạ xuống, đến chiều tối lại rút lên: sự phục hồi lại truyền thống của thời phong kiến đã biến tòa nhà ban đêm thành một hòn đảo.Khi gia đình Douglas đến làm chủ tòa lâu đài này thì nó đang sắp đổ nát.
Gia đình chỉ gồm hai người: John Douglas và vợ ông ta.John Douglas khoảng 50 tuổi, có một cái quai hàm thật khoẻ, nét mặt rắn rỏi, một bộ râu hoa râm, một đôi mắt xám rất sắc, vóc người lực lưỡng, dáng điệu cứng cỏi.
Những gia đình lân cận có học thức hơn, đã tiếp đãi ông với một sự tò mò và có phần dè dặt, nhưng ông thì lại rất đuợc lòng người dân ở trong làng.
Ông tham gia đóng góp rất rộng rãi vào tất cả mọi hoạt động ở địa phương, phụ trách các buổi hòa nhạc, và vốn có một giọng nam trầm, bao giờ ông cung sẵn sàng giúp vui bằng một bài hát thật hay.
Hình như ông có khá nhiều tiền, và người ta đồn rằng ông đã làm giàu trong các mỏ vàng ở xứ Californiafornia.
Điều đó thì không biết có đúng không, nhung chỉ cần nghe ông nói chuyện cung biết ông đã sống cả một phần đời ở bên Mỹ, người ta lại càng kính trọng ông hơn vì ông hoàn toàn coi thường sự nguy hiểm.
Mặc dù cưỡi ngựa rất tồi, nhưng mỗi khi có những cuộc thi ngựa là thế nào ông cung tham dự, và cái tính bướng bỉnh đó đã đem lại cho ông mấy lần ngã ngựa đến kinh hồn.
Khi bên nhà thờ bị cháy, lính cứu hỏa địa phương đã bó tay, ông một mình xông vào cứu những đồ đạc ra.
Cứ như thế, trong vòng năm năm trời, Douglas trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Birlstone.Vợ ông ta cung đuợc bạn bè kính nể, ở đây, bà ít đi lại chơi bời.
Nhưng số ít bạn bè này là đã quá đủ cho một bà chủ nhà vốn có tính dè dặt, và hình như chỉ để hết thời gian chú ý, săn sóc chồng.
Người ta biết rằng bà phu nhân người Anh này thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu, và đã làm bạn với ông ở London khi ông này góa vợ.
Bà rất đẹp, vóc người cao lớn, thanh mảnh, tóc màu nâu, trẻ hơn chồng đến 20 tuổi, bà thường tỏ ra rất kín đáo về quá khứ của chồng mình.
Hình như bà ta không hiểu biết gì nhiều lắm về ông ta.
Một vài người còn thấy bà vợ có vẻ bồn chồn, lo lắng mỗi khi ông chồng về trễ.
Trong một vùng nông thôn thanh bình như thế này, người ta rất thích thú bàn tán về những câu chuyện mách lẻo, và khi vụ án xảy ra thì dư luận càng xôn xao và cho rằng đúng là những điều nhận xét ấy có một ý nghia rất đặc biệt.Trong lâu đài còn có một nhân vật nữa, tuy không sống ở đó một cách thường xuyên.
Đó là ông Cecil James Barker, ở biệt thự Hales, Hampstead.
Cái dáng cao lênh khênh rất quen thuộc trong làng, vì ông ta hay đến lâu đài, và đuợc người ở đó quý mến lắm.
Người ta nói rằng ông là người nhân chứng duy nhất biết về quá khứ của ông Douglas.
Barker chắc chắn là một người Anh rồi, nhưng qua những câu chuyện của ông ta, thì có thể hiểu đuợc rằng, ông ta quen biết Douglas trước đây là ở bên Mỹ và lúc đó hai nguời sống với nhau thân thiết lắm.
Hình như ông ta cũng giàu có lớn thì phải và hiện vẫn chưa lập gia đình.
Ông ta trẻ hơn ông Douglas, chỉ trạc độ 45 tuổi là hết mức, người cao lớn, lưng thằng, thân hình nở nang, mặt mui nhẵn nhụi, không để râu.
Ông ta có hai hàng lông mày đen nhánh và nhất là đôi mắt đen áp đảo người khác.Ông ta không đi săn, không cuỡi ngựa, suốt ngày cứ ngậm cái tẩu thuốc đi dạo chung quanh làng.
Nếu không thì lại dong xe đi vào các vùng nông thôn với ông chủ nhà, và khi nào ông này vắng, thì với bà chủ nhà.
Người đầu bếp Ames trong lâu đài nói "Đó là một vị thượng lưu vô tư hào phóng".
Nhưng cũng bổ xung thêm "Nhưng thực tình, tôi không bao giờ lại dại dột muốn cãi lại ông ta.
Ông ta rất nhiệt tình với ông Douglas, và cung không kém phần nhiệt tình với vợ ông Douglas."Còn đối với những người khác cùng ở trong lâu đài, thì tôi chỉ cần kể đến anh đầu bếp Ames, nhanh nhẹn, đứng đắn đáng kính; bà Allen tươi tắn phốp pháp, một tay giúp việc đắc lực cho bà chủ nhà.
Còn sáu người gia nhân khác thì không dính dáng gì đến những sự kiện xảy ra trong đêm đó.Đồn cảnh sát địa phương được báo tin vào 12 giờ kém 15 phút đêm.
Lúc đó là buổi trực của trung sỹ Wilson thuộc cảnh sát Sussex.
Ông Barker, đã đến đập cửa và kéo chuông ầm ầm, báo tin rằng ôngDouglas đã bị ám sát.
Báo xong, ông lại vội vã trở về lâu đài.
Sau khi đã báo lên thượng cấp, trung sỹ Wilson đến ngay hiện trường.
Khi đến nơi, Wilson thấy chiếc cầu đã đuợc hạ xuống, các cửa sổ đều sáng đèn; và toàn thể lâu đài ở trong một tình trạng rối loạn.
Các gia nhân, mặt mui xám ngoét, đứng sát vào nhau ở phòng ngoài, còn anh đầu bếp, cứ vặn hai bàn tay vào nhau trên bực cửa, chỉ một mình ông là có vẻ tự chủ và kìm đuợc nỗi xúc động.
Ông mở cửa ở phòng ngoài, và mời trung si đi theo ông.
Cùng lúc đó bác sỹ Wood ở trong làng, cung đến.
Cả ba người bước vào căn phòng đã xảy ra tấn thảm kịch.
Anh đầu bếp theo vào, đóng cửa lại.Nạn nhân nằm ngửa.
chân tay duỗi thẳng ở giữa buồng, trên người chỉ có một cái áo choàng màu hồng, phủ ra ngoài bộ quần áo ngủ, chân đi giày vải.
Vị bác sỹ cầm cây đèn đặt lên bàn và quỳ xuống bên cạnh xác chết; thoáng nhìn qua ông lắc đầu: Douglas đã chết.
Một thứ vu khí kì lạ đuợc đặt tréo ngực ông ta: Đó là một khẩu súng ngắn mà nóng đã đuợc cưa ngắn đi, chỉ cách cò súng khoảng 1 foot.
Trông rõ ràng là ông ta đã bị bắn rất gần, và bị trúng đạn vào ngay giữa mặt.
Cả hai cò súng đã đuợc nối liền với nhau bằng một sợi dây thép, để lúc bắn thì cả hai nòng đều bắn một lượt làm cho sức công phá càng ghê gớm.Viên cảnh sát nói thất thanh:- Không ai đuợc sờ mó vào một tý gì ở đây, truớc khi cấp trên của tôi đến.Ông Barker nói dứt khoát:- Chưa có ai đụng vào đây cả, tất cả mọi vật đều vẫn y nguyên như lúc đầu.- Vào lúc mấy giờ?Viên trung si đã rút cuốn sổ tay ra.- Vào lúc 11 giờ rưỡi.
Lúc đó tôi vẫn ngồi trước lò sưởi ở trong phòng tôi, thì nghe thấy tiếng nổ.
Nổ không to lắm.
Hình như có cái gì bịt kín lại vậy.
Tôi vội đâm bổ xuống dưới nhà.
Tôi nghi rằng từ trên đó xuống đến đây không quá 30 giây đồng hồ.- Lúc đó cửa có mở không?- Cửa mở, ông Douglas thì nằm đúng nhu thế này.
Ngọn nến trong buồng vẫn cháy sáng ở trên bàn làm việc.
Sau đó một chút thì chính tối đã thắp cây đèn lên.- Ông có trông thấy ai không?- Không.
Tôi nghe thấy tiếng bà Douglas ở trên lầu chạy xuống sau tôi, và tôi đã ngăn bà lại để cho bà khỏi trông thấy cảnh