Tấm danh thiếp của Thorneycroft Huxtable vừa được đưa đến trước vài giây, theo sau nó là một người cao lớn xuất hiện.
Cánh cửa chưa kịp đóng lại sau lưng, ông đã với tay về phía bàn, đứng sững lại trên nền nhà, và ngã sóng soài lên trên tấm da gấuChúng tôi nhổm phắt dậy, Holmes kê gối ngồi xuống dưới đầu cho ông, còn tôi thì đưa ly brandy kề môi ông.- Điều gì xảy đến với ông ta vậy, Watson? - Holmes hỏi.- Kiệt sức.
Có lẽ vì đói và mệt.- Vé khứ hồi đến Mackleton, phía bắc nước Anh - Holmes rút ra một tấm vé đường sắt từ trong chiếc túi nhỏ đựng đồng hồ của ông ta, và nói:- Bây giờ chưa đến 12 giờ.
Ông ta phải ra đi từ rất sớm.Mí mắt hơi tấy lên của vị khách khẽ động đậy, thế rồi đôi mắt xám của ông dán vào chúng tôi bằng một cái nhìn vô nghĩa.
Lát sau, tiến sĩ Huxtable khó nhọc đứng dậy, mặt đỏ lên vì xấu hổ:- Hãy thứ lỗi cho tôi, ông Holmes, Cơn ngất này là hậu quả của một sự chấn động thần kinh.
Không, xin cảm ơn ông.
Chỉ cần cốc sữa với bánh biscuit thì tất cả sẽ qua khỏi thôi ông Holmes, tôi đến đây mời ông đi cùng với tôi.- Để khi nào ông hoàn toàn hồi sức đã.- Tôi thấy dễ chịu rồi ông Holmes, tôi khẩn khoản mời ông đi Mackleton ngay.Holmes lắc đầu:- Chúng tôi rất bận.
Tôi đã nhận tiền trước cho việc điều tra khác rồi.
Lúc này chỉ một việc cực kỳ quan trọng mới có thể buộc tôi rời khỏi London.- Cực kỳ quan trọng! - Vị khách của chúng tôi vung tay lên - Lẽ nào ông không biết gì về vụ bắt cóc người con trai duy nhất của công tước Holdernesse?- Sao? Cái ông cựu bộ trưởng đấy à?- Phải, Chúng tôi đã dốc hết sức mình để chuyện đó không lên mặt báo.
Thế nhưng, hôm qua có một tờ báo đã loan tin.
Tôi nghĩ những tin này đã bay đến ông.Holmes với lấy tập sách chỉ dẫn trên giá, tìm đến chữ H.- “Holdernesse...!Công tước thứ sáu,… Nam tước Beverley, Bá tước Carston, chà, một danh sách dễ sợ! Hầu tước Hallamshire từ 1900.
Cưới Edith, con gái ngài Charles Appledore, 1888.
Họ chỉ có 1 con và là người thừa kế duy nhất, Huân tước Saltire.
Chủ sở hữu 250.000 mẫu Anh lãnh địa trong vùng Lancashire và xứ Wales.
Địa chỉ: Carlton House Terrace; Holdernesse Hall, Hallamshire; lâu đài Carston, Bangor, Wales.
Lãnh đạo Bộ Hải quân năm 1872; Tổng thư ký Hội đồng… Đây là con người nổi tiếng, và là một trong những người nổi tiếng nhất của Hoàng gia...”.- Một trong những người nổi tiếng nhất, và có thể còn là một trong những người giàu có nhất nữa, Ông Holmes, xin cho phép được nói rằng: Ngài hứa sẽ trao tấm séc 5.000 bảng cho người nào chỉ ra nơi cất giấu con ngài, và 1.000 bảng cho ai chỉ ra kẻ bắt cóc đứa bé.- Quả là hào phóng! - Holmes nói.
- Watson! Chúng ta sẽ đi theo tiến sĩ.
Còn ông, tiến sĩ Huxtable, hãy kể cho chúng tôi nghe chuyện gì đã xảy ra.Vị khách nốc cạn cốc sữa, rồi nói:- Tôi là người sáng lập và là hiệu trưởng khu học xá Huxtables Sidelights ở Horace.
Khu học xá dành cho học sinh của tôi là một trường học tốt nhất nước.
Huân tước Leverstoke, Bá tước Blackwater, ngài Cathcart Soames… Rất nhiều gia đình quý tộc đã gửi con đến đây.
Nhưng 3 tuần tước, công tước Holdernesse đã nhờ ông James Wilder, thư ký của ngài, đưa huân tước Saltire, người con trai 10 tuổi và là người thừa kế duy nhất của Ngài, đến học ở chỗ chúng tôi.
Không ngờ đây lại là điểm bắt đầu vận rủi nhất của đời tôi.Cậu bé đến vào ngày 1 tháng 5.
Chẳng bao lâu, cậu bé đã quen dần với nề nếp của chúng tôi.
Cần lưu ý rằng trước đó, ở tại nhà, cậu bé sống không được thoải mái, hai ông bà không còn sống chung với nhau, nữ công tước đã dọn đến miền Nam nước Pháp, còn đứa con thì hướng về người mẹ.
Lần cuối cùng người ta trông thấy cậu là vào tối ngày 13 tháng 5.
Căn phòng dành cho cậu ở gác ba, còn căn phòng lớn bên cạnh có hai cậu bé khác ngủ.
Vào cái đêm đó, hai cậu bé này không nhìn thấy, cũng như không nghe thấy gì cả.
Thật ra cậu bé không rời khỏi phòng bằng cửa chính.
Cửa sổ ở chỗ cậu ta mở toang, cây thường xuân với những nhánh rất rậm rạp quấn quanh tường.
Trên mặt đất chúng tôi không tìm thấy dấu vết nào, nhưng chắc chắn là cậu đã bò qua cửa sổ.Sáng ngày 14 tháng 5, lúc 7 giờ, người ta phát hiện ra chuyện này.
Giường của cậu không trải chăn.
Trước lúc đi, cậu ta còn kịp mặc bộ đồng phục học sinh.
Không có ai vào phòng cậu ban đêm.
Còn nếu như từ đó vọng ra những tiếng kêu hay những âm thanh vật lộn thì chắc người học sinh lớn hơn ở phòng ngủ bên cạnh tất sẽ nghe thấy.Ngày sau đó tôi triệu tập tất cả ký túc xá lại.
Đến lúc đó chúng tôi tin rằng cậu bé không đi một mình.
Ông Heidegger, giảng viên tiếng Đức đã vắng mặt, căn phòng của anh ở chái nhà đối diện với gác ba.
Cửa sổ của căn phòng cũng trông ra ngoài bãi cỏ.
Giường chiếu của anh ta không được dọn dẹp, áo sơ mi và đôi tất chân của anh để bừa bãi trên sàn nhà.
Ông ta bò qua cửa sổ bíu vào những nhánh thường xuân, tụt xuống dưới.Ông giáo sư này vào trường tôi hai năm trước đây, do sự tiến cử đáng tin cậy nhất.
Nhưng ông ta là một người trầm lặng, hay cau có và không gây được cảm tình của mọi người.Hôm nay là ngày 16 tháng 5.
Từ ngày 13 tháng 5, chúng tôi đã không còn tin tức nào về kẻ chạy trốn.
Đầu tiên tôi liên lạc với công tước, hiện đang ở Holdernese Hall, cách trường vài dặm, hy vọng vì nhớ nhà mà huân tước Saltire đã trở về với cha.
Thế nhưng cậu ta không có ở đấy.
Công tước vô cùng lo ngại.
Ông Holmes, tôi van ông, hãy hiến toàn bộ sức lực cho vụ này.Sherlock Holmes rút cuốn sổ tay từ túi ra, và ghi vào đấy một điều gì đó để cần được ghi nhớ.- Ông đã phạm một sai lầm lớn là không đến đây ngay.
- Holmes thốt lên nghiêm khắc - Điều này sẽ gây nhiều rắc rối cho cuộc điều tra, chẳng hạn bãi cỏ và dây thường xuân trên tường đều có thể cho ta biết nhiều điều quan trọng.- Công tước đã gắng giữ kín việc này.
Ngài sợ những nỗi bất hòa trong gia đình mình trở thành đầu đề cho những lời đàm tiếu.- Nhà chức trách địa phương tiến hành điều tra- Rồi, nhưng không đem lại kết quả.- Có lẽ công việc điều tra hiện trường vẫn chưa được tiến hành đến nơi đến chốn?- Tự nhiên cảnh sát ngừng cuộc điều tra!- Như thế nghĩa là ba ngày đã trôi qua một cách vô ích.
Điều này thật đáng buồn.- Ông rất có lý.- Dẫu sao tôi vẫn sẵn lòng bắt tay vào việc.
Ông đã xác định mối quan hệ giữa cậu bé và người giáo viên chưa?- Không có mối quan hệ nào giữa họ cả.- Ông ta có dạy cậu ta không?- Không.- Các xe đạp đều không bị đụng đến sao?- Không.- Ông tin chắc vậy à?- Phải.- Ông có nghĩ rằng người thầy dạy tiếng Đức đã ra đi bằng xe đạp với cậu bé?- Cố nhiên, không.- Vậy lúc ấy ông giải thích chuyện đó ra sao?- Có thể họ lấy xe để đánh lạc hướng.
Sau đấy họ giấu xe đạp vào một nơi nào đấy, còn chính họ lại đi bộ.- Cũng có thể.
Nhưng đó là cách đánh lạc hướng kỳ quái.
Các xe đạp vẫn ở trong kho chứa à?- Vâng- Phải chăng ông ta đi bằng xe đạp rồi sau đó giấu xe đạp đi, chứ ông ta không đi bộ?- Ông hoàn toàn có lý.- Không, lý luận này có chỗ chưa ổn.
Song, việc mất một chiếc xe có thể là khởi điểm cho sự điều tra.
Chỉ còn một câu hỏi này nữa: Có ai đến thăm cậu bé trước ngày cậu mất tích không?- Không.- Có thể có lá thư gửi cho cậu ta?- Có một lá thư.- Ai gửi?- Cha cậu ta.- Ông mở hộp thư của học sinh chứ?- Không.- Thế tại sao ông cho rằng lá thư là của cha cậu ta?- Trên phong bì có gia huy và địa chỉ được viết bằng chính nét chữ nguệch ngoạc của công tước.
Ngoài ra chính công tước cũng nhớ là đã viết thư cho con.- Cậu bé nhận được các lá thư khi nào?- Những ngày sau cùng không có lá thư nào gửi cho.- Từ Pháp có ai gửi cho cậu ta không.- Không.
Một lần cũng không.- Tất nhiên ông hiểu tôi đang hướng tới cái gì rồi: Hoặc là người ta dùng sức mạnh để cướp cậu ta hoặc là cậu ta tự đi theo ý muốn của mình.
Còn nếu không một ai đến chỗ cậu ta thì sự tác động chính là ở lá thư.
Tôi coi trọng việc biết ai là người liên lạc thư tín với cậu ta- Chỉ có người cha viết thư cho cậu ta thôi.- Bức thư của người cha đến đúng vào ngày cậu bé chạy trốn.
Mối quan hệ giữa cha và con ra sao? Có tồi không.- Ngài bị cuốn hút vào những công việc quốc gia đại sự, nhưng Ngài quan hệ với người con cũng không đến nỗi tồi.
Tuy vậy, trái tim của đứa trẻ hoàn toàn hướng về người mẹ.- Bản thân cậu bé có nói như thế không?- Không.- Vậy ai nói? Công tước nói chăng?- Ồ, tất nhiên là không.- Thế thì do đâu ông biết được điều đó?- Tôi phải trò chuyện với viên thư ký của công tước, James Wilder.
Ông ta đã tiết lộ với tôi về tâm trạng của huân tước Saltire.- Hiểu rồi.
Nhân tiện xin hỏi luôn, bức thư cuối cùng của công tước đã được tìm thấy trong phòng của cậu bé sau khi cậu bé mất tích phải không?- Không, cậu ta cầm theo người.
Ông Holmes, có lẽ đã tới lúc chúng ta cần ra ga rồi.- Bây giờ tôi phái người đi gọi xe.
Sau 4 giờ nữa, chúng tôi sẽ sẵn lòng giúp ông.
Ông tiến sĩ, nếu ông có ý định đánh điện về nhà thì hãy làm sao cho mọi người nghĩ rằng cuộc điều tra vẫn còn đang tiến hành ở Liverpool, trong thời gian đó, tôi sẽ yên ổn làm một cái gì đó ở ngay cạnh trường ông.Khi chúng tôi đi tới cạnh trường thì trời đã tối hẳn.
Một tấm danh thiếp nằm trên bàn ở phòng chờ.
Người hầu phòng thì thầm với ông hiệu trưởng.
Và thế là ông ta quay trở lại chỗ chúng tôi với một vẻ thật xúc động.
Ông ta nói:- Công tước đang ở đây.
Công tước và ông Wilder hiện đang chờ tôi trong phòng làm việc.
Chúng ta cùng vào đi.
Tôi sẽ giới thiệu các ông với công tước.Tôi có biết người hoạt động nhà nước danh tiếng này qua các bức ảnh.
Nhưng con người thật của ông thì không giống các bức ảnh.
Ông trông nhợt nhạt như xác chết.
Đứng cạnh ông là người thư ký riêng Wilder.
Đó là một chàng trai có vóc người tầm thước, bộ mặt linh hoạt, đôi mắt thông minh.
Anh ta bắt đầu câu chuyện bằng một giọng rất quả quyết, thậm chí cay độc.- Tiến sĩ Huxtable! Tôi đã ở chỗ ông ngay từ sáng nay.
Song, đáng tiếc là tôi đến muộn và đã không thể ngăn cản chuyến đi của ông.
Như mọi người cho biết thì ông đến chỗ thám tử Sherlock Holmes để ủy thác cho ông ấy điều tra vụ này.
Công tước tỏ ra ngạc nhiên khi ông chưa xin ý kiến Ngài mà đã dám hành động như vậy!- Khi cảnh sát đã không đưa tới cái mà...- Công tước không hề tin vào điều đó.- Nhưng, thưa ông...- Ông tiến sĩ! Công tước không muốn chuyện này lan rộng ra để dễ dàng khắc phục tình trạng này.Tiến sĩ hoảng sợ, lúng túng nói.- Ông Sherlock Holmes có thể trở về London bằng chuyến tàu sáng.- Tôi không có ý định như vậy đâu, tiến sĩ ạ.
- Holmes cười một cách nhã nhặn - Vòm trời phương Bắc sảng khoái và xinh đẹp nên tôi quyết định nghỉ ngơi một vài ngày trên những bình nguyên này.
Tôi sẽ tiêu khiển trong những điều kiện cho phép tại vườn nhà ông, hay ở khách sạn nông thôn.
Điều này cố nhiên chỉ tùy thuộc vào ông.Nhưng, đúng lúc ấy giọng nói trầm trầm của viên công tước đã kịp thời vang lên, cứu thoát ông tiến sĩ.- Tiến sĩ Huxtable! Đáng lẽ ông cần trao đổi với tôi thì hơn.
Tuy nhiên, nếu ông đã thổ lộ tất cả công việc này với ông Holmes thì chối từ sự giúp đỡ của ông ấy là một hành vi ngu ngốc.
Ông Holmes, ông chẳng việc gì phải tới khách sạn.
Tôi sẽ vui lòng đón ông về nghỉ ngay tại nhà chúng tôi.- Xin cảm tạ Ngài! Nhưng theo yêu cầu của công việc, tôi cần phải ở lại đây, ngay tại nơi đã xảy ra biến cố.- Tôi không muốn ép buộc ông đâu, ông Holmes ạ.
Song nếu ông thấy cần thu thập những tin tức nào đó ở tôi hay ở ông Wilder, chúng tôi rất sẵn lòng.- Có lẽ tôi phải đến thăm Ngài tại lâu đài Holdernesse.
Còn bây giờ, tôi chỉ muốn biết Ngài giải thích việc biến mất một cách đầy bí ẩn của con Ngài như thế nào?- Thật khó trả lời quá, thưa ông.- Xin lỗi Ngài, nếu tôi đụng phải vấn đề khiến Ngài cảm thấy khó chịu.
Thế nhưng không còn cách nào hơn.
Ngài có cho rằng nữ công tước đã lôi kéo cậu bé không?Viên cựu bộ trưởng chần chừ rồi nói:- Không, tôi không nghĩ như vậy!- Thế thì có thể có kẻ nào bắt cóc cậu bé để chuộc tiền chăng?- Không, thưa ông.- Còn một câu hỏi nữa, thưa ngài.
Tôi được biết: Ngài đã viết thư cho con trai Ngài vào đúng cái ngày mà cậu bé biến mất, phải không?- Không, chuyện đó xảy ra vào ngày hôm trước.- Hoàn toàn chính xác.
Có điều cậu bé đã không nhận được thư vào chính ngày hôm đó?- Phải.- Trong lá thư đó chắc không có điều gì có thể làm cậu bé xúc động hoặc đem lại cho cậu ta ý nghĩ chạy trốn chứ?- Tất nhiên không, thưa ông!- Chính tay lá thư, phải không?Viên thư ký ở phía sau công tước bực tức trả lời:- Công tước không có thói quen tự mình chuyển thư từ cho người nhận.
Lá thư ấy được lưu lại trên bàn, cùng với những lá thư khác trong phòng làm việc.
Và tôi đã nhét tất cả vào thùng bưu chính.- Ông có tin chắc là trong số các lá thư ấy chắc chắn có bức thư chuyển cho cậu bé không?- Tất nhiên! Tôi đã nhìn thấy nó.- Ngài đã viết bao nhiêu lá thư vào ngày hôm ấy, thưa công tước?- Hai mươi hoặc ba mươi gì đấy.
Tuy nhiên theo tôi, chúng ta đã phần nào đi ra ngoài thực chất của công việc rồi đây!- Không.
Tại sao như thế được? - Holmes nói.- Chính tôi đã khuyên cảnh sát hướng sự điều tra xuống phía Nam nước Pháp - Công tước tiếp tục - Xin nhắc lại, tôi không cho rằng nữ công tước có khả năng đẩy con trai tới hành động kỳ lạ ấy được.
Nhưng do tính bướng bỉnh, cộng với sự xúi bậy và hỗ trợ của anh chàng người Đức, đứa bé có thể chạy tới chỗ mẹ mình.
Còn bây giờ, tiến sĩ Huxtable, xin được phép từ biệt ông.Tôi cảm thấy Holmes còn muốn hỏi một vài câu nữa song viên công tước đã kết thúc câu chuyện, hình như ông ta e ngại rằng mỗi câu hỏi mới sẽ lại soi rọi ánh sáng không thương tiếc vào phần cuộc đời được ông che đậy kỹ lưỡng.Ngay sau khi họ đi khỏi, Holmes liền bắt tay vào việc.
Sự quan sát căn phòng của cậu bé không đem lại kết quả gì ngoài kết luận dứt khoát là cậu ta chạy trốn qua phía cửa sổ.
Trong phòng của người giáo viên cũng không tìm thấy gì mới.
Dây trường xuân phía dưới cửa sổ không chịu nổi sức nặng của cậu bé.
Soi đèn trên bãi cỏ, chúng tôi nhận ra ở đó có những vết giày hằn sâu, cỏ bị xéo nát: đó là bằng chứng duy nhất về cuộc chạy trốn ban đêm.Để tôi ở lại một mình, Sherlock Holmes bỏ đi, và anh trở về khoảng 12 giờ đêm.
Anh thu được tấm sơ đồ địa phương ở đâu đó.
Anh trải nó trên giường rồi đặt cây đèn vào chính giữa và bắt đầu xem xét.
Thỉnh thoảng anh dùng chiếc tẩu thuốc chỉ cho tôi coi những điểm cần lưu ý.- Tôi muốn anh chú ý tới một vài chi tiết có thể mang ít nhiều ý nghĩa trong quá trình điều tra.
Hãy nhìn vào tấm sơ đồ này! Ô chữ nhật có nét gạch chéo này là trường học.
Chúng ta sẽ cắm kim găm vào đó.
Còn đây là đường nhựa.
Nó chạy qua khu trường theo hướng đông - tây.
Trong khoảng một dặm không có những con đường nhánh từ đây đi các hướng khác.
Nếu họ đi bằng dường bộ thì không thể không đi qua con đường này.- Đúng vậy!- Còn chỗ này, từ 12 giờ đêm đến 6 giờ sáng có cảnh binh túc trực: đây là ngã ba đầu tiên ở hướng đông của con đường.
Người cảnh binh không rời trạm gác lấy một chút.
Anh ta khẳng định rằng chắc chắn anh ta sẽ nhận ra người đàn ông và cậu bé nếu họ có đi qua đấy.
Tôi đã nói chuyện với anh ta hồi tối và theo tôi, chúng ta có thể tin vào lời của anh ta.
Thế nghĩa là về phía đông của con đường được loại trừ ra.Còn bây giờ chúng ta xem tình hình ở phía tây xem sao.
Ở đó có khách sạn “Bò Mộng”.
Nữ chủ nhân đang bị bệnh.
Bà phái người đi Mackleton để mời bác sĩ.
Nhưng vị bác sĩ này lại đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Mãi đến sáng sớm hôm sau, ông ta mới tới được chỗ bà.
Vậy là ở khách sạn, trong khi chờ đợi bác sĩ, suốt đêm mọi người không ngủ được.
Thỉnh thoảng người ta nhìn ra ngoài đường xem bác sĩ đã đến chưa.
Theo lời của người này thì không một ai đi qua khách sạn cả.
Nếu tin theo lời của họ thì phần đường phía tây sẽ không còn làm chúng ta nghĩ ngợi gì nữa.
Vì vậy, những người chạy trốn đã chọn một con đường khác.- Họ đi bằng xe đạp chăng? - Tôi hỏi.- Đúng vậy! Nếu những kẻ chạy trốn không đi trên đường cái, thì họ hoặc là đi theo hướng bắc, hoặc là đi theo hướng nam của ngôi trường.
Vậy chúng ta thử cân nhắc hai giả thiết này xem sao.
Phía nam khu trường có một cánh đồng rộng lớn.
Cánh đồng bị phân cách thành những mảnh nhỏ.
Mỗi mảnh được ngăn với mảnh khác bởi hàng rào xây bằng đá.
Không có khả năng qua đó bằng xe đạp.
Vậy cần loại trừ giả thiết này.
Chúng ta sang phía bắc.
Ở đây, chúng ta trông thấy một cánh rừng nhỏ, được gọi là i dao lệch”.Phía sau khu rừng chừng 10 dặm có một cánh đồng hoang kéo dài, càng về hướng bắc càng nhiều gò đống.
Chênh chếch phía trái cánh đồng là lâu đài Holdernesse: theo đường cái đến nơi này phải mất 10 dặm, còn theo đường chim bay mất chừng 6 dặm.
Cánh đồng này hiu quạnh và vắng vẻ.
Vài trại chăn nuôi trâu bò nằm rải rác trên đó.
Cừu, bò và chim đầm lầy, đó là cư dân duy nhất của vùng này.
Xa hơn còn có một đường nhựa chạy qua.
Dọc theo con đường này có chừng hai, ba biệt thự, một nhà thờ và một khách sạn.
Phía sau là những quả đồi cao và dốc.
Tôi tin là cần phải hướng sự tìm kiếm của chúng ta về phía đó.- Nhưng còn xe đạp? - Tôi nhắc lại.- Những người đi xe đạp cừ khôi không chỉ đi trên đường cái.
Hơn nữa ở cánh đồng lại có những con đường mòn.
Vả lại, đêm hôm đó trăng lại rất sáng.
Vậy còn có gì khó đâu?Có tiếng gõ cửa khẩn cấp, tiến sĩ Huxtable bước vào phòng ông cầm chiếc mũ cát màu xanh với phù hiệu trắng trên lưỡi trai, ông ta reo lên:- Thật là may mắn! Thế là chúng ta đã lần ra dấu vết của cậu bé.- Các ông tìm thấy ở đâu?- Ở chỗ những người du mục.
Bọn bắt cóc lưu lại trong trại du mục trên cánh đồng.
Hôm nay, cảnh sát bất thình lình ập tới chỗ họ, lục soát trong xe.
Và họ tìm thấy cái này.- Nó rơi vào tay họ bằng cách nào vậy? Họ nói những gì?- Họ thề rằng đã tìm thấy chiếc mũ trên cánh đồng vào sáng ngày 14 tháng 5.
Không, quân vô lại ấy đã bị tống giam cả rồi.Tiến sĩ bước ra khỏi căn phòng.- Thế là được rồi, ở đây nếu cảnh sát không bắt được những người du mục thì họ không làm được gì cả.
Hãy nhìn vào sơ đồ này, Watson.
Con suối này chảy qua cánh đồng.
Ở khoảng giữa khu trường và lâu đài nó hóa thành đầm lầy.
Tiết trời bây giờ hanh khô, vậy tìm kiếm dấu vết sẽ không khó lắm.
Có thể còn lưu lại một cái gì đó giữa đầm lầy.Ngày hôm sau khi thức giấc vào lúc mờ sáng, tôi nhận ra bóng dáng cao gầy của Holmes cạnh giường tôi.
Anh mặc áo quần tề chỉnh.- Tôi đã khảo sát bãi cỏ và kho để xe đạp.
Sau đó tôi đi dạo ở khu rừng “Mũi dao lệch”.
Hãy dậy đi, Watson! - Gương mặt bạn tôi ửng đỏ, đôi mắt sáng lên như vẫn thường thấy ở những người mong mỏi bắt tay vào công việc ưa thích.Lòng tràn đầy hy vọng, chúng tôi đi đến cánh đồng than bùn.
Ở đó có rất nhiều con đường ngang dọc bị đàn cừu giẫm mòn.
Chẳng bao lâu chúng tôi đi tới cánh đồng cỏ đã hóa thành đầm lầy ngăn cách chúng tôi với tòa lâu đài.
Nếu chạy về nhà, thì cậu bé không thể đi qua cánh đồng này được! Tại đây tất cả phải lưu lại những dấu vết của cậu và những dấu vết của ông giáo người Đức.
Nhưng chúng tôi không thấy những dấu vết như vậy.
Holmes đi dọc theo bên rìa của cánh đồng cỏ.
Anh chăm chú quan sát từng vệt sần trên bề mặt cánh đồng.
Ở đây có rất nhiều vết chân cừu.
Đi tiếp vài dặm nữa chúng tôi thấy vết móng chân bò cái.- Bế tắc rồi! - Holmes buồn bã đưa mắt nhìn quanh cánh đồng - Tại đây còn có những bãi lầy và giữa bãi lầy này có một lối đi hẹp.
Hãy nhìn kìa! Cái gì thế này?Chúng tôi bước vào lối mòn có in hình một dải đen đen.
Những vết bánh xe đạp in rõ trên lối mòn ẩm ướt.- Xe đạp đây rồi! - Tôi reo lên.Nhưng Holmes lắc đầu.- Một chiếc xe đạp nào đấy chứ không phải chiếc xe đạp chúng ta đang tìm.
Tôi biết tới 42 lốp xe đạp khác nhau.
Vết lốp này là của hãng “Dunlop” và lại còn có miếng “ghệt” nữa.
Lốp xe của ông giáo người Đức do hãng “Palmer” sản xuất, có những đường vạch dọc kia.
Một giảng viên dạy toán đã nói cho tôi biết điều đó.
Cho nên, không phải giáo viên người Đức mà là một người khác đã qua đây.- Nghĩa là- Ôi!.
Giá như cậu bé có xe đạp? Người ta cam đoan với chúng ta là cậu bé không có xe.
Những dấu vết này, được bắt đầu từ khu trường.- Hay là ta theo hướng tới trường.- Không phải!.
Vết bánh xe sau luôn sâu hơn vì nó phải chịu trọng lượng lớn hơn.
Đây này!? Ở một vài chỗ, vết bánh xe sau đã xóa lấp vết bánh xe trước.
Không người đi xe đạp chắc phải đi ra từ khu trường.
Cũng có thể người này không có quan hệ gì với sự truy tìm của chúng ta.
Song, chúng ta hãy cứ theo dấu vết này mà đi ngược lại vậy.Chúng tôi đã làm như thế.
Khi tới chỗ con đường mòn rẽ ngoặt từ vạt đất bị hóa lầy, đột nhiên vết lốp xe đạp biến mất.
Con suối nhỏ cắt ngang lối mòn, và ở bờ bên kìa, vết xe đạp lại xuất hiện, mặc dầu có những con bò cái đã xéo lên chúng.
Sau đấy, con đường mòn ăn sâu vào cánh rừng “Mũi dao lệch”.
Cánh rừng hầu như tiếp liền ngay với tòa nhà của trường, rõ ràng người đi xe đạp đã xuất phát từ cánh rừng này.
Holmes ngồi xuống một tảng đá, tay chống cằm.
Anh ở trong thế hoàn toàn bất động.
Cuối cùng, anh nói:- Thôi được! Một kẻ có đầu óc phòng xa cố nhiên có thể thay bánh xe đạp để đánh lẫn dấu vết.
Ta hãy tạm gác vấn đề nan giải này lại và hãy quay lại chỗ đầm lầy.Chúng tôi tiếp tục xem xét tỉ mỉ phần đất lầy lội của cánh đồng.
Chẳng bao lâu chúng tôi nhận ra còn một lối mòn khác nữa.
Holmes đi tới gần lối mòn và vui sướng reo lên.
Những vết mảnh chạy dài ở phía giữa lối mòn.
Đó là dấu lốp xe đạp của Palmer.- Ông giáo người Đức đã qua đây! - Holmes thốt lên xúc động.- Xỉn chúc mừng anh !- Thế nhưng còn lâu nữa mới tới được kết quả cuối cùng, đừng bước vào lối mòn.
Hãy đi theo vết này.
Có lẽ chỉ chốc lát nữa thôi nó sẽ đột ngột kết thúc.Tuy vậy ở phần này của cánh đồng vẫn luôn gặp phải những chỗ sình lầy.
Và mặc dầu lốp xe đạp thỉnh thoảng bị iến mất nhưng sau đó chúng tôi lại tìm thấy nó.
Holmes nói:- Anh hãy để ý xem ở đây, người đi xe đạp vào pédale không.
Điều này thật dễ thấy.
Anh nhìn vào những vết lốp xe trước và sau mà coi, chúng đều rõ như nhau.
Đó là do người đi xe đã dồn trọng lượng về phía trước như những tay đua vẫn thường làm.
Trời! Anh ta ngã kìa!Trên lối mòn có một vệt loang dài và rộng.
Xa hơn một chút thấy có những vết giày, và sau đó vệt lốp xe đạp lại xuất hiện.Holmes nhặt một cành cây có hoa bị gãy từ dưới đất lên.
Những bông hoa màu vàng bị vấy vệt đỏ.
Trên lối mòn trong bụi cây, những vết máu khô thẫm lại.- Công việc tồi quá! Rất tồi! Thôi Watson, không đi về hướng này nữa.
Hãy lui về phía kia vậy.
Nào, xem ta có thể tìm được gì ở đây nào? Anh ta ngã, bị thương...!đứng dậy...!Rồi lại ngồi lên xe...!tiếp tục đi.
Có một đàn bò đi qua lối mòn này, nhưng không phải bò đực đã húc anh ta? Có điều không gặp những vết khác ở đây.
Đi lên phía trước Watson.
Những vết máu, những vết lốp xe đạp.
Hãy cứ theo những dấu vết này.Sự truy tìm của chúng tôi không kéo dài.
Vết xe đột nhiên bắt đầu rẽ theo lối mòn bóng lên vì ẩm ướt.
Tôi đưa mắt về phía trước.
Bất thình lình những ánh kim loại lóe lên ngay trước mặt tôi.
Chúng tôi lôi từ lùm cây ra một chiếc xe đạp của hãng “Palmer”.
Một pédale bị uốn cong, tay lái và bánh trước bê bết máu.
Cách không xa có một chiếc giày trồi lên trên cỏ.
Chúng tôi chạy bổ đến đó và nhìn thấy người lái xe đạp bất hạnh: người cao, để râu, đeo kính.
Mắt kính phải bị vỡ.
Một quả đấm trời giáng vào sọ là nguyên nhân gây ra cái chết.
Sau khi bị thương anh còn có thể đi xe đạp được vài yard nữa.
Anh ta không mang tất, còn sau lần áo vét, chúng tôi nhận ra chiếc áo ngủ.
Không còn hoài nghi gì nữa.
Đây là giảng viên người Đức.Holmes thận trọng xoay thi thể trở lại để xem xét.
Cuối cùng, Holmes lo âu, nói:- Thú thật, tôi không rõ bây giờ chúng ta phải làm gì.
Sự tìm kiếm đã kéo dài đến mức không thể mất thời giờ thêm nữa, chúng ta cần báo cho cảnh sát.
Lẽ nào lại có thể để người bất hạnh nằm ở đây- Hãy viết vài chữ cho tôi.- Nhưng thiếu sự trợ giúp của anh, tôi không thể tiến hành công việc được.
Kìa! Có ai đang gạt than bùn kia kìa! Hãy nhờ người ấy đi mời cảnh sát tới đây.Tôi thực hiện ngay yêu cầu của Holmes, và anh nhờ người chủ trại ấy chuyển giấy cho tiến sĩ Huxtable.- Thế đó, Watson ạ.
Sáng nay chúng ta đã tìm được hai dấu vết.
Dấu thứ nhất là lốp xe đạp hãng Palmer, nó dắt chúng ta tới nạn nhân.
Dấu thứ hai là lốp xe đạp bì “ghệt” của hãng Dunlop.
Trước khi tìm hiểu dấu vết thứ hai này, chúng ta hãy lưu ý rằng cậu bé đã tự ý bỏ chạy.
Cậu ta bò qua cửa sổ và lẻn đi một mình hoặc cùng với người báo tin cho mình.- Có lý.- Cậu bé đã có chuẩn bị để chạy trốn, nên ăn mặc đầy đủ.
Nhưng ông thầy người Đức mặc áo quần vội vã nên đã bỏ chạy mà không kịp mang tất chân.- Chắc chắn như vậy.- Cái gì buộc ông ta nhảy qua cửa sổ? Chính là việc ông ta nhìn thấy cậu bé chạy trốn.
Ông muốn đuổi kịp và đưa cậu bé trở lại.
Ông ta vớ lấy xe đạp của mình, đuổi theo cậu bé và chết trên đầm lầy.- Rất có lý.- Rượt theo cậu bé, một người đàn ông chỉ cần chạy theo là đủ rồi.
Thế mà ông thầy người Đức, theo ý kiến của tiến sĩ Huxtable, là một tay đi xe đạp cừ khôi, lại làm khác? Ông ta chạy vào kho lấy xe đạp của mình.
Từ đó có thể rút ra kết luận thế này: Ông ta nhận thấy cậu bé sử đụng một phương tiện di chuyển ưu việt hơn đôi chân của ông ta.
Nói cách khác, cậu bé đã lấy xe đạp của một ai đó phải không? Chúng ta hình dung kết cục của cuộc tẩu thoát ấy như thế này: Ông thầy người Đức chết cách ngôi trường 5 dặm.
Cần lưu ý là ông ta chết vì quả đấm của một người có đôi tay rắn khỏe.
Nghĩa là cậu bé có người bạn dường và họ đào tẩu nhanh tới mức một tay lái xe đạp cừ khôi chỉ đuổi kịp họ ở dặm đường thứ năm.
Tại nơi xảy ra tấn thảm kịch, tìm thấy những dấu vết của móng bò cái và chỉ có vậy thôi? Tôi đi một đường vòng rộng chừng 50 bộ vẫn không tìm thấy một lối mòn nào khác.
Người lái xe đạp thứ hai không có liên quan gì tới vụ giết người, và ở đây không có vết chân người.- Này Holmes! Điều đó thật khó tin!- Hoan hô! Kết luận thật chí lý! Trong sự trình bày các sự kiện của tôi có một cái gì đó thật khó tin.
Đúng thế, tôi có sai lầm.
Song, trong suốt thời gian điều tra, anh luôn ở bên tôi và chính mắt anh đã nhìn thấy tất cả.
Vậy tôi sai lầm ở chỗ nào?- Có thể anh ta bị thương vào đầu trong khi ngã.- Ở giữa đầm lầy này sao?- Tôi rối trí mất rồi, Holmes ạ.- Chúng ta đã từng giải đáp được những câu hỏi còn hóc búa hơn thế.
Chỉ cần vận dụng chúng một cách khôn khéo nữa thôi...!Nào, hãy tiếp tục đi Watson! Chiếc lốp xe hãng “Palmer” đã nói hết cho chúng ta rồi đấy Giờ thử xem chiếc lốp xe “ghệt” hãng Dunlop sẽ đưa chúng ta đến đâu?Chúng tôi đi theo vết này.
Nhưng chẳng bao lâu những quả đồi thoai thoải phủ những lùm cây thấp đã giăng dài trước mặt chúng tôi.
Con suối đã ở lại đằng sau.
Đi tiếp sẽ không có ý nghĩa gì cả, bởi vì những vết lốp xe hãng Dunlop có thể dẫn đến lâu đài Holdernesse với những chiếc tháp to nhô tên về phía trái, hoặc có thể đưa tới những túp nhà màu sáng thấp lè tè mà sau lưng có con đường cái chạy qua.Lúc chúng tôi chỉ còn cách quán trọ “Gà Chọi” chừng vài bước, đột nhiên Holmes kêu lên một tiếng, nắm lấy vai tôi cho khỏi ngã, làm như một chân bị sái.
Anh cà nhắc bước đến trước cửa khách sạn, nơi có một người đàn ông đang ngồi.- Xin chào ông Reuben Hayes! - Holmes nói.- Ông là ai? Sao biết tên tôi? - ông ta hỏi, sau khi ném ra một cái nhìn hằn học và ngờ vực.- Tên ông được ghi ở tấm biển ngay trên đầu ông kia kìa.
Xin cho chúng tôi biết ông có chiếc xe ngựa nào không?- Không.- Tôi không thể bước nổi nữa.- Nếu không bước nổi, thì đừng có bước.- Vậy tôi di chuyển bằng cách nào được?- Bằng nạng vậy!Ca1i ga4 Reuben Hayes thật bất lịch sự.
Thế mà Holmes đã chịu đựng được.
Anh nói:- Hỡi ông chủ đáng mến! Xin hãy nghe đây, ông không thấy điều gì rủi ro đã xảy ra với tôi ư? Chúng tôi phải đến nơi chúng tôi cần.
Vậy bao giờ chúng tôi mới đến được?- Bao giờ đến à? Tôi không quan tâm đến chuyện đó.- Tôi đến đấy vì một việc quan trọng.
Hãy cho tôi mượn xe đạp của ông, tôi sẽ đền ơn trọng hậu.Chủ nhà vểnh tai nghe.- Ông cần đi đâu?- Đến lâu đài Holdernesse.- Không phải đến thăm công tước chứ?Chủ khách sạn hỏi, vừa chế nhạo vừa nhìn vào bộ áo quần cáu bẩn của chúng tôi.Holmes phá lên cười thân thiện:- Công tước sẽ đón tiếp chúng tôi một cách niềm nở.- Tại sao?- Vì chúng tôi có những tin tức tốt về đứa con của NgàiGã đàn ông giật mình:- Phải chăng các ông đã tìm thấy?- Từ Liverpool, người ta đã cho biết rằng cậu ta hiện đang ở đấy.
Thế đó, rồi sẽ tìm được thôi!Một bóng đen chợt thoáng qua bộ