Nói đến đoạn này có lẽ có nhiều người muốn hỏi, tại sao lại nhiều hàng giả như vậy? Nhìn đến đâu cũng toàn là hàng giả?
Rất đơn giản.
Bây giờ những loại đồ cổ trên phố, không cần biết là bán ở tiệm bán đồ cổ hay là ở gian hàng chợ thì chín phần đều là hàng giả.
Thứ tốt lẽ nào còn phải giữ lại cho ông? Đã sớm bị người khác nhanh chân giành lấy rồi!
Mấy năm trước những tiết mục thẩm định cũng nhiều vô số kể, tạo thành cơn sốt giám định sôi nổi.
Ngay đến cả những người dân nông thôn cũng biết đến đồ cổ rất đáng tiền.
Mấy chục năm, những tay lái buôn đến thu mua đồ cổ của những người nông thôn chỉ tốn mấy trăm ngàn, thậm chí chỉ có mấy ngàn thì có thể nhận được một số những món đồ tương đối tốt.
Nhưng bây giờ, cho dù một chiếc bát vỡ không đáng tiền, chỉ cần là mấy chục năm thì những bác gái nông thôn đều xem chúng như là bảo bối.
Đến làng quê thu mua đồ cổ, những thứ bỏ đi vứt dưới đất, không hỏi thì thôi, vừa hỏi một chút sẽ trở nên đáng giá!
Cho dù là chiếc bát vỡ mười mấy ngàn, chỉ cần tay lái buôn có ý muốn mua thì chủ nhà sẽ khẳng định nó rất đáng tiền, từ đó mới trả giá.
Thời đại này, thu mua đồ cổ cũng rất khó.
Thật ra, những thứ tốt sớm đã bị những người có tiền nhanh chân giành lấy trước, chỉ trừ những bảo bối gia truyền.
Tại sao Thẩm Lãng lại dám xác định rằng bức tranh của Yến Văn Quý “Giang Sơn Lâu Quan Đồ” đáng giá trước mặt này lại nhất định là đồ giả? Bởi vì bản gốc của bức tranh này đang ở Nhật Bản!
Bức họa này đang ở bảo tàng nghệ thuật thành phố Osaka Nhật Bản, bởi vì do nguyên nhân lịch sử ban đầu khiến nó lưu lạc đến Nhật Bản.
Vậy nên, có những lúc tiến hành giám định di vật văn hóa thật sự rất rất khó.
Muốn tăng tính chính xác của cuộc thẩm định di vật văn hóa bắt buộc cần phải hiểu rõ di vật văn hóa này, hoặc là hiểu rõ về loại di vật văn hóa tương tự với kiểu di vật văn hóa này, từ đó mới có thể thẩm định.
Còn về nhắm mắt làm liều, chỉ nghiên cứu những tài liệu có trong sách thì căn bản là chưa đủ.
Tốt nhất là có thể cầm trên tay quan sát, trực tiếp tiếp xúc, mặt đối mặt, tay trên tay.
Tệ nhất là bạn phải tự mình nhìn thấy nó, cho dù là qua tấm kính của viện bảo tàng vẫn tốt hơn là chỉ học những lý thuyết trong sách vở.
“Được rồi được rồi! Vậy thì nói thế này với ông vậy! Bức tranh này của ông là hàng giả, bản chính ở bảo tàng Nhật Bản.
Mà giấy chứng nhận giám định của Kỳ Trân Các cũng là giả.
Đó vốn dĩ không phải là giám định của Kỳ Trân Các!”
Thẩm Lãng nói với ông chủ của Tri Thú Trai.
Quả nhiên, nghe thấy những lời này, ông chủ của Tri Thú Trai cũng có chút luống cuống.
“Ha ha...!Vậy sao? Bản thật ở Nhật Bản sao? Đó có thể là hai bức tranh sinh đôi, đều là bản gốc!”
Nghe vậy, Thẩm Lãng bật cười nói: “Theo như ông nói thì hai bức tranh này là Yến Văn Quý vẽ, nên hai bức tranh giống nhau như đúc?”
“Haha, đúng vậy! À, ha ha...!Đúng thế!...” Ông chủ của Tri Thú Trai cũng cảm thấy rất lúng túng.
“Nói xằng nói bậy!” Ngữ khí của Thẩm Lãng đột ngột tăng lên mấy phần, biến thành giọng điệu nghiêm túc.
Ông chủ Tri Thú Trai giật mình, lắp ba lắp bắp nói: “Sao...!sao có thể là nói bậy được! Được rồi được rồi! Bức tranh này có thể là tôi bị lừa rồi! Chỗ tôi đây còn có một bức tranh tuyệt đối là bản gốc của Yến Văn Quý!”
Cuối cùng đã tới rồi.
Thẩm Lãng chính là đang chờ lúc này.
Thẩm Lãng còn muốn xem Tri Thú Trai này rốt cuộc có bao nhiêu hàng giả.
Thật ra Thẩm Lãng muốn tìm cũng không đơn thuần là hàng giả, bởi vì thị trường đồ cổ bây giờ thật sự là quá nhiều hàng giả.
Mà Thẩm Lãng muốn tìm là đồ giả có chứng chỉ thẩm định của Kỳ Trân Các.
Đây mới là mục đích thật sự của Thẩm Lãng.
“Cầm ra xem một chút, tôi không tin trong cửa hàng của ông có bản gốc.” Thẩm Lãng cố ý nói ra nặng lời.
Một cửa tiệm bán đồ cổ chí ít cũng phải có một số đồ là thật để cầm ra lên mặt.
Mà Thẩm Lãng cố ý dùng chiêu khích tướng khiêu khích ông chủ Tri Thú Trai.
Quả nhiên, ông chủ Tri Thú Trai hừ lạnh nói: “Hừ! Cậu cũng quá coi thường Tri Thú Trai này của ta rồi! Tốt xấu gì cũng là cửa tiệm năm sao uy tín được nhà họ Lăng nhận định.”
Sau đó, ông ta liền để cho nhân viên cửa tiệm mang một bức tranh khác của đại họa sĩ nhà Tống Yến Văn Quý vẽ ra.
“Tiểu tử! Để tôi cho cậu mở mang tầm mắt một chút.
Bức “Quang cảnh lầu Khê Sơn” này cậu đã từng nghe chưa?”
Ông chủ Tri Thú Trai mở ra một bức tranh cổ nhẹ nhàng quơ qua quơ lại.
Thẩm Lãng chỉ cười nhạt, anh chỉ thấy ông chủ của Tri Thú Trai này làm ra một hành động vô cùng buồn cười.
Anh đã gặp qua rất nhiều bức tranh cổ, ở nhà cũng không ít những bức tranh quý hiếm, ông chủ Tri Thú Trai này một chút cũng không hay biết.
Khoe khoang với ai ở nơi này chứ? Ngay cả bức tranh của Tống Huy Tông Thẩm Lãng cũng đã thấy qua, đã sờ qua, ở nhà còn có mấy bức, lại nhìn qua dáng vẻ ông chủ Tri Thú Trai chưa hiểu sự đời.
“Tôi không chỉ nghe, mà tôi còn đã thấy!” Thẩm Lãng bật cười.
Ông chủ Tri Thú Trai nghe vậy cũng có chút kinh ngạc.
“Cậu thấy rồi ư? Sao có thể chứ? Ngay cả bức tranh này cậu cũng đã thấy rồi ư?”
Ông chủ Tri Thú Trai không thể bình tĩnh nữa, mẹ nó, lần này rốt cuộc đã đụng phải dân chơi đồ cổ thâm tàng bất lộ hay là gặp phải một tên tiểu tử thối chỉ biết nói khoác!
Dù sao thì ông chủ Tri Thú Trai cũng có chút hỗn độn.
“Có thể nói là ngoài bản thân Yến Văn Quý ra thì tôi là người hiểu rõ “Quang cảnh lầu Khê Sơn” nhất.”
Thẩm Lãng nói, càng nói tới bức tranh này, so với bức tranh này anh đối với bất kì ai cũng phải đều quen thuộc hơn, đều tiếp xúc lâu hơn.
Bức “Quang cảnh lầu Khê Sơn” cũng là do họa sĩ thời Tống Yến Văn Quý vẽ nên.
Chất liệu của bức tranh này là giấy gỗ cơ bản, màu nhạt, kích thước chiều dọc là 103.9 cm, chiều ngang là 47.4 cm.
Trên bức tranh là một phần cận cảnh quang cảnh của Giang Nam, cũng giống như những tác giả miêu tả Giang Nam vậy.
Trên bờ sông Đinh Châu có những ngọn đồi nhấp nhô, những bóng cây cổ thụ uốn cong, bãi cát trải dài đầy đá vụn và hai dãy nhà thủy tạ được xây dựng bên cạnh dòng suối.
Ở nơi sương khói mờ nhân ảnh như chốn thần tiên này đúng là một nơi mát mẻ để trốn khỏi nắng hè và thưởng thức phong cảnh.
Có ba năm người cưỡi ngựa hoặc gánh đi dọc con đường xung quanh khiến cho bức tranh hết sức tinh tế.
Tầm nhìn về phía xa xa miêu tả phong cảnh núi non hùng vĩ của phía Bắc.
Trong sâu thẳm núi rừng, thấp thoáng những tòa cung điện, tuy nhỏ nhỏ nhưng mái hiên, vòm