Thẩm Lãng có ấn tượng khá tốt về Lăng Sương Nguyệt.
Lúc trước, Lăng Sương Nguyệt đem đàn cổ tặng cho một người bạn tri âm, chính là tặng Thẩm Lãng một chiếc "Nhẫn chín tầng trời" mà đến bây giờ anh vẫn rất biết ơn vì điều đó.
Bởi vì ngày đó, chỉ có Lăng Sương Nguyệt hiểu anh, cũng chỉ có cô ta mới có thể nhìn thấy tài nghệ đánh đàn của anh, cũng coi như là một người bạn tri kỷ.
"Cô Lăng, đúng là tôi đã ném bọn người Lăng Hoả xuống lầu.
Hôm đó, người nhà họ Lăng làm việc quá thô lỗ và kiêu ngạo, chẳng qua tôi chỉ đến quán trà uống trà bình thường mà thôi, là bọn họ hung hăng gây sự trước.
Tôi không đánh bọn họ, chẳng lẽ còn phải khách sáo, nén giận kính trà nữa sao? "
Thẩm Lãng không để tâm tới Lăng Vũ một chút nào, có cái gì thì nói cái đó.
"Chị nhìn xem, thằng nhóc này cũng quá ngông cuồng rồi.
Mấy đứa vô dụng Lăng Thủy và Lăng Hoắc chỉ có thể bị chúng ta bắt nạt, chứ không thể để người ngoài bắt nạt chúng như vậy được!" Lăng Vũ là người nóng nảy, dễ xúc động, nói chuyện đầy mùi thuốc súng.
Mà Thẩm Lãng cũng không cho Lăng Vũ một chút mặt mũi nào.
“Thật may là ngày đó cậu không đi, nếu như cậu cũng có mặt lúc đó thì chắc là cũng bị tôi ném xuống lầu rồi.” Thẩm Lãng nói.
Vừa nghe thấy lời này, Lăng Vũ lập tức bùng nổ.
"Thẩm Lãng, dù cho anh mượn mười lá gan thì anh cũng không dám!"
Thẩm Lãng thản nhiên liếc Lăng Vũ một cái, sau đó nói: "Tôi không có thời gian mà ở đây cãi nhau với cậu, tôi đến thành đồ cổ Cửu Đỉnh là để mua đồ cổ."
Thẩm Lãng không thể đem chuyện điều tra "đồ giả" của anh nói cho người gia đình họ Lăng biết, bởi vì toàn bộ thành đồ cổ Cửu Đỉnh thuộc về nhà họ Lăng.
Chuyện làm giả đồ cổ có liên quan gì đến nhà họ Lăng hay không thì vẫn chưa thể xác định chắc chắn được.
Lăng Vũ cười lớn: "Ha ha, ha ha ha, anh còn biết đồ cổ sao?"
“Tôi còn biết rất nhiều.” Thẩm Lãng bình tĩnh đáp lại.
“Ha ha, Thẩm Lãng, nói thật cho anh biết, ngành đồ cổ là một ngành rất sâu, đừng để đến lúc đó đem cả tập đoàn Phi Vũ của anh kéo vào chôn chung.” Lăng Vũ cười lạnh.
“Nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa có vật nào có thể qua đôi mắt của tôi mà không lộ bị vạch trần.” Đương nhiên Thẩm Lãng có tư cách nói ra những lời này.
Anh là người học trò của ông Thôi, anh có trình độ này.
“Chị, chị mau nghe một chút, thằng nhóc này chỉ được cái khoác lác là không ai bằng, thật sự không biết làm sao lúc trước chị có thể gặp gỡ, rồi còn kết bạn với loại người này được.” Lăng Vũ nói.
“Vũ, không được vô lễ, có lẽ anh Thẩm rất hiểu đồ cổ.” Lăng Tiếu không vội đưa ra kết luận.
Dù sao trước đây, cô cũng không thể ngờ rằng Thẩm Lãng vô cùng thành thạo âm luật và đánh đàn rất giỏi.
Vì vậy, trước khi sự thật được xác nhận thì không thể coi thường Thẩm Lãng.
“Được rồi, vậy thì em sẽ hỏi một vài câu hỏi đơn giản để kiểm tra anh ta, rất nhanh anh ta sẽ lộ ra bộ mặt thật thôi.” Lăng Vũ nói.
Thẩm Lãng cũng bình tĩnh nói: "Cậu cứ tha hồ đưa ra câu hỏi, nếu không trả lời được, tôi sẽ tự vả vào miệng mình."
"Ha ha, tốt! Vậy thì anh đã sẵn sàng tát vào mặt mình đi!"
Lăng Vũ nói xong liền chỉ vào một bức tranh trong cửa hàng đồ cổ bên cạnh.
"Nói cho tôi biết, bức tranh này thuộc triều đại nào."
Thẩm Lãng nhìn theo ngón tay của Lăng Vũ và nhìn thấy bức tranh.
Trên mặt bức tranh này không hề có chữ ký hay dòng chữ ghi tên nào, chỉ có bức tranh.
Nhưng mà, chuyện này làm sao có thể làm khó được Thẩm Lãng.
Chẳng mấy chốc, Thẩm Lãng đã có câu trả lời.
"Bức tranh này là" Phật tổ thuyết pháp ".
Đức Phật ngồi xếp bằng trên một tòa hoa sen, bên cạnh chỗ ngồi là hai vị thiên vương A Nan, Đại Già Diệp, xung quanh là hai vị Bồ tát chắp tay cúng bái.
Lông mày Đức Phật dài, nhỏ và dáng vẻ uy nghiêm.
Hai vị thiên vương mặc áo giáp, cầm kiếm trên tay, trông thật dũng mãnh.
Vẻ mặt các nhân vật trong toàn bộ tác phẩm đều khác nhau và sống động như thật.
Đây là bức tranh điển hình thời Tống.
"
Lăng Vũ khẽ cau mày.
"Thằng nhóc này bị lừa rồi, vậy mà còn dám nói tranh của thời Tống như đúng rồi ấy.
Nếu đây là tranh thời Tống thì giải thích lý do đi.
Nếu anh nói sai thì coi như thua." Lăng Vũ nói.
Vừa nghe, Thẩm Lãng thì thào: "Tranh thời Tống có đặc điểm riêng biệt, không phải là vẻ hào hoa, lộng lẫy mặc áo giáp vàng của nhà Đường, mà là đơn giản, hàm súc, khiêm tốn, hòa nhã và có liên quan đến quốc gia.
Với điều kiện lúc bấy giờ, thời nhà Đường ngưỡng mộ võ công còn thời nhà Tống ngưỡng mộ văn học, cũng tạo ra sự khác biệt rất lớn trong văn hoá.
Có rất nhiều bức tranh của tranh Tống được để lưu truyền lại, ít nhất hàng ngàn bức đã được lưu giữ vào tiềm thức của người dân như một truyền thống văn hóa.
"
"Mà trong bức tranh này, vị bồ tát có thân hình đầy đặn, đường nét y phục lem luốc mực, nhưng vẫn có thể nhìn thấy tập tục còn sót lại của thời cuối nhà Đường.
Tuy nhiên, búi tóc của Phật lại thấp và phẳng, phía dưới búi tóc có chỗ phồng lên.
Đây là một trong những đặc điểm của tượng Phật thời nhà Tống, cho nên đây là tác phẩm đầu thời Bắc Tống ”.
Căn cứ