Nói về Trịnh Ấn tính xàm trong lòng, nên mang túi rỗng vào tiệm kêu tửu bảo biểu đem rượu ngọt và đồ ngon. Tửu bảo coi bộ quan khách to lớn lại cao, biết sức ăn uống như rồng như cọp, liền đem ra ít bầu rượu và dọn đủ đồ ngon. Trịnh Ấn ăn uống trội hơn ngày thường, vì nhịn đói đã một ngày rưỡi, ăn uống một hồi lại kêu thêm rượu, hối đồ ăn. Tửu bảo thấy khách y phục đoan trang, ngỡ tiền lưng nhiều lắm, nên lựa toàn món ngon vật lạ, lại trông cho khách ăn ráng cho nhiều. Tuy nghe tiếng Trịnh Ấn nói khác tiếng mình, song thấy mặc sắc phục nhà vua nên tửu bảo không dám tra hỏi. Khi Trịnh Ấn ăn no say và trà nước xong thì sửa soạn xuống lầu không nói gì đến việc tiền bạc. Tửu bảo thấy vậy liền nghĩ:
- Bộ người này tính ăn lường, nên cố thực quá, ăn rồi mà không nói đến việc bạc tiền, lại coi bộ muốn lên lưng ngựa mà đi! Nghĩ rồi, bèn đón lại đòi tiền. Trịnh Ấn nói:
- Nhữ Nam vương có ăn uống bao nhiêu thì bổn địa phải chịu, ngươi còn đòi bạc gì? Thôi bao nhiêu thì ngươi tính đi, tới ngày trừ bạc thuế, hay là muốn đến trình huyện mà lấy của công nho, hai lẽ ngươi muốn lẽ nào?
Chủ quán nghe ra mới biết là một vị vương hầu bên Tống, cừu địch với nước mình, nên tính đi báo quan mà lãnh bạc thưởng, liền nạt tửu bảo rồi làm bộ vui vẻ thưa:
- Khi nãy thằng bạn tôi con mắt mù quáng, không biết đại vương, nó thất lễ mười phần, tôi xin cam chịu lỗi.
Nói rồi liền cúi lạy, Trịnh Ấn mừng rỡ khi thấy chủ quán tôn kính mình. Còn chủ quán thì hối các tửu bảo đem trà thơm ra đãi, còn làm bộ giả lả đãi đằng chu đáo gấp đôi khi trước rồi nói:
- Tôi có mắt mà như mù, không biết đại vương, nay nhờ ơn bề trên cho tính tiền trừ thuế. Song vương gia nói miệng, sợ quan thâu thuế không tin, vì chẳng có dấu chi làm cớ, vậy xin đại vương phê cho ít chữ và đóng ấn vào, ngày sau có quan thâu thuế đến, tôi chiếu giấy mà trừ, thiệt ơn đại vương sánh tựa non biển. Trịnh Ấn nghe nịnh êm tai thì khen rằng:
- Chủ quán thiệt là người có trí, ta khá khen cho đó!
Nói rồi biểu đem giấy mực ra. Trịnh Ấn đề rằng: "Phải chiếu theo giấy này trừ thuế cho thân tộc tiệm này mười năm." rồi ký tên đóng dấu kỹ lưỡng. Chủ tiệm làm bộ mừng rỡ cúi lạy tạ ơn, rồi truyền cho tửu bảo đem rượu tốt và đồ ăn ngon no đủ mọi món, nào thịt rừng nào cá biển. Trịnh Ấn thấy đãi những món mỹ vị thì ráng ăn uống thêm. Chủ quán thì càng ân cần khuyên ép, rồi bước vào nhà trong sai bạn đi mách với quan Tổng binh, dặn rồi trở ra hầu rượu. Tổng binh xứ nọ họ Tiêu tên chữ là Hóa Long, nghe gia tướng của chủ quán đến bẩm:
- Chủ tôi phục rượu ột vị vương nước Tống, còn ngồi trong quán, coi bộ đã say, nên chủ tôi sai đến bẩm với ông, xin đem binh đến bắt.
Tiêu Hóa Long nghe báo mừng rỡ vô cùng, dẫn năm ngàn binh mã ra đi. Đến quán thì Trịnh Ấn đang uống rượu. Tiêu Hóa Long hét lớn:
- Khen cho Tống tặc cả gan còn ngồi uống rượu!
Trịnh Ấn nghe rõ mới hay mình còn ở trong địa phận đất Kiên Lăng, bị chủ quán làm mưu sai người đi báo cáo. Muốn cầm roi lên ngựa, mà cự với tướng Đường, ngặt say quá nên tay chân rã rượi, Trịnh Ấn túng thế thót lên ngựa mà chạy. Binh Nam Đường vây phủ quá đông. Trịnh Ấn ngồi không vững vàng liền nhào xuống ngựa, quân Nam Đường áp lại bắt trói Trịnh Ấn. Tiêu Hóa Long mừng rỡ mười phần, liền thường quán nhân năm trăm lạng bạc. Chủ quán mừng rỡ tạ ơn. Tiêu Hóa Long truyền quân dẫn Tống tặc về ải. Về đến ải, Tiêu Hóa Long truyền đem giam Tống tặc được ít ngày đêm giải mà lập công.
Bởi qua bữa sau là trung thu trăng tỏ, bạn đồng liêu thăm viếng chơi bời, tại nhà quan nên việc ăn chơi trọng thể lắm! Ngày ấy có người đồng liêu thiết nghĩa với Tiêu Hóa Long là Úc Thoại làm chức Trấn quốc tướng công, có người con gái là Úc Sanh Hương, tài cao phép lạ. Hai cha con họ Úc đi giải một tên tội phạm, thuận đường ghé viếng Tiêu Hóa Long, tên phạm ấy cũng là tướng bên Tống. Tiêu Hóa Long tiếp đãi Úc Thoại và hỏi thăm vì cớ nào mà bắt được Tống tướng. Úc Thoại nói:
- Tống tướng họ Cao tên Quân Bội, đêm hôm qua đơn thương độc mã đến bắn tên lửa vào thành quyết đốt kho lương, may trời khiến tôi hay đặng đem binh ra vây nó. Không dè nó tướng nhỏ mà sức mạnh như thần, đánh nhằm cánh tay tôi bị thương. Khi quân báo lại con gái tôi là Sanh Hương ra đánh bắt nó đem về. Tôi tính giải nó đến vua, trước là lập công sau là báo thù roi sắt, e Tống tướng đón đường cướp giựt, bởi khi trước khi có chiếu truyền rút binh các ải về thủ thành vua, nên binh tôi mười phần nay còn có một. Nay mới giải Tống tướng, có năm trăm binh mà thôi, nên ghé lại Tổng binh mượn thêm nhân mã ba ngàn đặng đi giải, chẳng hay Tổng binh có đành chăng? Tiêu Hóa Long nghe nói:
- Không dè anh cũng như em, đồng bắt được tướng Tống. Nói rồi thuật chuyện bắt Trịnh Ấn. Úc Thoại nghe qua mừng vội. Tiêu Hóa Long nói:
- Tôi cũng định giải nó đi, may gặp anh đi giải cùng đường, song đêm nay là đêm Trung thu, mời anh ở lại vui chơi, rồi ngày mai anh em ta cùng đi giải, cũng không trễ nải chi. Úc Thoại là con sâu rượu, nghe bạn mời ăn tiệc liền bằng lòng.
Nói về Tiêu Dẫn Phụng là con gái Tiêu Hóa Long, lại là em bạn với Úc Sanh Hương tình chi lan như keo sơn gắn chặt. Tiêu Dẫn Phụng cũng là con một như Úc Sanh Hương, nghe tin chị em đến thì mừng rỡ, lại nghe cha mời ở lại ăn tết Trung thu, Tiêu Dẫn Phụng lại mừng nhiều hơn nữa.
Đêm ấy chị em lên lầu, xem trăng uống rượu, nói chuyện đến khuya, lúc đó mọi người đều ngủ hết, chỉ còn hai chị em còn thưởng nguyệt. Xảy nghe có tiếng than thở, hai chị em đều lén đi rình nghe thì thấy hai người nói chuyện với nhau trong tù xa như vầy:
- Đại trượng phu chết giữa chiến trường thì rạng danh như nhật nguyệt, ngặt vì thương nỗi mẹ già cui cút, ngày sau trăm tuổi già không ai thọ chế cư tang. Kế nghe người khác nói:
- Phàm con người ở đời hễ đặng thảo mất ngay, đặng ngay mất thảo, mấy ai mà đặng trung hiếu lưỡng toàn! Chúng ta không phải thường tình nhi nữ? Người kia đáp lại:
- Anh Trịnh, anh nói cũng phải, song ta nghĩ lại giận Miêu quân sư, không chịu sai tướng khác, quyết ép tôi vào chốn hang cọp miệng hùm, chắc là không còn tính mạng. Quân sư có đưa cho tôi một phong thư, dặn đêm trung thu gặp anh sẽ giở ra xem dầu bị tai nạn cũng khỏi. Song bị buộc tay chân thì làm sao mà lấy được thơ trong túi mà xem thì chắc tai qua nạn khỏi.
Hai tướng nói chuyện thì hai chị em nghe rõ ràng, hai nàng bèn trở lại Bá Hoa Đình xem hoa thưởng nguyệt. Tiêu Dẫn Phụng nói với Úc Sanh Hương:
- Chị ôi. Lúc em ở núi về, Thánh mẫu có dặn, sau hai chị em sẽ kết duyên cùng trai Tống. Nay nghe hai tướng Tống nói chuyện: Miêu quân sư có đưa bức thư chi, dặn coi thì khỏi nạn, chi bằng ta sai con đòi thừa dịp này mà móc túi, lấy thư coi thử nói những chuyện gì. Chị xét lại thử coi có đáng hay là không đáng?
Úc Sanh Hương khen phải, Tiêu Dẫn Phụng sai con đầy tớ tâm phúc đến lục túi lấy thơ. Trịnh Ấn không cho, làm bộ quỷ thần nạt nộ. Cao Quân Bội nói:
- Mình có thơ mà coi không được, cũng nên để cho người ta coi, hoặc tai qua nạn khỏi, nên đừng trở ngại!
Trịnh Ấn giận làm thinh không thèm nói lại. Con đòi lục túi Cao Quân Bội, lấy được phong thơ mừng rỡ lật đật đem về cho chủ. Tiêu Dẫn Phụng thấy phong thơ điểm kỹ càng, khai ra thấy tám câu thơ như sau:
"Nhân duyên ngàn dặm Tống hòa Đường,
Căn dặn gia nhân phải chủ trương.
Đẹp phận Trịnh vương cùng Dẫn Phụng,
Phỉ nguyền Quân Bội với Sanh Hương,
Tù xa khỏi nạn hương thêm đượm.
Vừng nguyệt làm mai lửa cháy hường,
Mới biết duyên trời đà định trước,
Phần ai nấy gặp bởi tơ vương."
Hai chị em xem thơ nghĩ giật mình. Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Bài thơ này nói rõ tên họ đôi lứa của chúng ta, như lời Thánh mẫu đã dạy. Nay đã gặp gỡ lẽ nào dám trái lòng trời mà nỡ cãi lời thầy cho được! Chị tính thế nào bây giờ? Úc Sanh Hương nói:
- Phải thuận sẽ trời, nghe lời thầy chớ, duyên lành dễ kiếm hay sao? Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Đã biết vậy mà bây giờ vâng lời thầy lại mang tiếng là bỏ cha phản chúa, tội bất trung bất hiếu, sao mặt nào dám ngó cha già? Úc Sanh Hương nói:
- Người phải có kinh có quyền, không phải giữ hoài một mực, nay coi Tống hưng thạnh. Nay chị em ta vâng lời thầy lén cha mà kết tóc cùng tướng Tống, cứ theo lẽ thì ta bất hiếu bất trung, song ngày sau mình phò Tống cứu cha, cũng đã đem công mà trừ tội, lại đặng hưởng vinh hoa phú quý, không uổng công ăn học thuở nay cho nên nay là bất hiếu sau đặng trọn thảo trọn ngay. Nếu phò Nam Đường mà chết cả dòng, mới gọi là hiếu hay sao? Tiêu Dẫn Phụng nghe nói khen:
- Lời luận tùng quyền của chị hay lắm!
Hai chị em bàn luận rồi cấm a hoàn chớ nên tiết lậu. Truyền đóng cửa vườn lại hối con đòi tâm phúc ra tháo tù xa; thuật các việc cho hai tướng ấy nghe, rồi mở đây rước vào thương nghị, a hoàn vâng lệnh, y theo lời dạy mà làm, mở tù xa và mở trói cho hai tướng rồi mời đi theo mình đến ra mắt nhị tiểu thơ. Hai nàng thấy mặt tướng Tống thì hổ thẹn, song gượng nói:
- Xin nhị vị công từ hãy xem thơ của Quân sư rồi sẽ tính lẽ nào cho chị em tôi biết với!
Nói rồi sai con đòi đưa thơ cho nhị vị công tử. Cao Quân Bội liền xem thơ. Còn Trịnh Ấn chưa kịp coi nên làm dữ, mắng người sao vô lễ xem thơ của mình. Cao Quân Bội lắc đầu rồi trao thơ cho Trịnh Ấn. Trịnh Ấn xem rồi khen thầm Quân sư tuyên thánh, nhân duyên trước mặt, họ tên ngày tháng rành rành. Lúc ấy, hai nàng cúi mặt xuống và nói:
- Tuy bài thơ ấy của Quân sư, nhị vị công tử đọc xong rất hiệp với lời dặn của thầy tôi là Kim Hoa Thánh mẫu nên không cãi lẽ trời cho đặng, vậy chẳng hay hai vị công tử chước lượng làm sao?
Cao Quân Bội thấy hai nàng hữu tình, cứu mình trong cơn hoạn nạn, nếu nghịch mà không chịu, chắc là bị giải đến vua Nam Đường, thì tánh mạng mười phần còn một, mình chết không tiếc, riêng thương nỗi mẹ không kẻ phụng thờ. Huống chi Quân sư đề tên họ rõ ràng, không phải tội nơi mình làm mà sợ? Nghĩ rồi nói hơn thiệt cho Trịnh Ấn nghe, anh em cùng bằng lòng như một. Tiêu Dẫn Phụng nói:
- Bây giờ đã thuận cả, mới nhất định đôi lứa làm sao? Úc Sanh Hương sợ Tiêu Dẫn Phụng dành người trắng trẻo của mình, liền đáp:
- Lời xưa có nói: "Vợ chồng là căn nợ" và sách có câu: "Vô ân trái bất thành phu phụ, hễ tướng nào của ai bắt đặng là duyên nấy, còn nghị luận làm chi! Ban đầu Tiêu Dẫn Phụng chê Trịnh Ấn mặt mày như quỷ, sao bằng Cao Quân Bội tốt trai,