HƯƠNG 17 ĐẰNG SAU NHỮNG ĐÔI MẮT
Tóm tắt các vấn đề trong chương này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về ý kiến cho rằng những người gần gũi nhất với những kẻ sát nhân thậm chí cũng không nhận ra được mối nguy hiểm đang gần bên cạnh.Từ đó, ta có thể thấy được cách thức tiếp cận nạn nhân của những tên quỷ dữ đột lốt người là như thế nào và cũng làm chấm dứt nghi vấn khi cho rằng một người vợ hoặc cha mẹ là người "chắc đã biết điều gì đó". Theo như những thông tin đã được đăng trên các tờ báo vào năm 1969, sau khi Jerome Brudos thú nhận tội ác sát hại 4 cô gái trong công xưởng tại nhà, thậm chí đã giết ít nhất một người ngay khi vợ hắn chỉ ở cách hiện trường vụ án không xa, người vợ đã bị cáo buộc là đồng phạm. Cô ấy không chỉ phải chịu đựng nỗi khiếp sợ khi biết được hành động dã man của người chồng, cũng là người cha của 2 cô con gái của mình, mà còn là sự nhục nhã khi bị cho là đã tiếp tay cho những hành vi vô nhân đạo hắn. Cuối cùng thì cô được Tòa xử vô tội. Và đến năm 2004 khi Dennis Rader được biết đến với biệt danh kẻ sát nhân "BTK" bị bắt giữ, chúng ta thấy được một cách rõ ràng về sự che giấu rất kín đáo của một kẻ sát nhân hàng loạt khi đã để vợ và các con ở những khoảng không gian riêng tư. Mặc dù vậy, nhiều người cho rằng cô ta chắc hẳn đã phải nhận thấy dấu hiệu nào đó.
Không có lí do gì để tin cô ta không biết về những việc làm đó, và thậm chí là những người đã bầu cho Rader làm lãnh đạo giáo đoàn Luther cũng vậy. Hắn là một kẻ giết người "có tổ chức", rất chuyên nghiệp trong việc che giấu những ham muốn điên cuồng và các hành vi bệnh hoạn của mình. Trên thực tế, ta có thể nói rằng hành vi tiếp cận, tra tấn và thảm sát đã làm thõa mãn những cơn giận và sự thèm khát bệnh hoạn của hắn lớp nhờ vào vỏ bọc điềm đạm trong những hoàn cảnh như ở nhà và giáo đường. Những kẻ sát nhân như hắn có bản chất không lương thiện mà cũng không ác,và liều thuốc độc nào đã dẫn đến sự biến đổi thuộc về tâm lý thầm kín.
NHỮNG BÍ MẬT
Nhiều người tin rằng những tên sát nhân là những kẻ đơn độc và thất bại, không có khả năng duy trì sự nghiệp và các mối quan hệ. Họ được cho là kém giáo dục, đề cao bản thân, và tìm kiếm sự thỏa mãn. Xã hội muốn những con quái vật đó lộ diện một cách rõ ràng và nhiều tác phẩm văn hóa phổ biến cũng thể hiện mong muốn đa số chúng cần phải sống ngoài rìa của xã hội. Nhưng những con quái vật đó thật sự đang sống giữa mỗi người chúng ta -một cách dễ dàng và ít gây chú ý bởi những kẻ thông minh luôn biết điều chỉnh sự chú ý của người khác, làm chệch hướng nghi ngờ đối với bọn họ.
Ted Bundy giết hại một người phụ nữ trẻ khi là một nhân viên tư vấn khẩn cấp; John Wayne Gacy chôn cất những nạn nhân nam dưới chính ngôi nhà mà hắn đang kinh doanh gây quỹ cho những nhà chính trị gia địa phương và nuôi dưỡng những đứa trẻ bệnh tật. Và kẻ giết hàng chục gái điếm ở thành phố Spokane, Robert Yates, là một cựu phi công từng được tặng thưởng rất nhiều huy chương đã sát hại 5 đứa trẻ vô tội. "Kẻ sát nhân nhãn cầu"- Charles Albright, có bằng thạc sĩ, thông thạo nhiều ngoại ngữ, cựu giáo viên môn khoa học và đã từng có một cuộc hôn nhân dường như rất hạnh phúc. Kẻ sát nhân giết 3 đứa trẻ , John Joubert, từng là người trợ giúp nhóm hướng đạo sinh nam. Andrei Chikatilo, cũng giống Micheal Ross có một bằng đại học, đã thừa nhận đã sát hại 8 phụ nữ, hắn cũng có thêm một tấm bằng của đoàn thể thao Ivy. Tại sao chúng ta không phát hiện ra những kẻ giết người hàng loạt đang được che giấu bởi vỏ bọc là một người hoàn toàn có trách nhiệm với xã hội, trước khi chúng gây ra hậu quả ngiêm trọng?
Những kẻ sát nhân cố gắng hòa hợp với mọi người bởi họ thuộc dạng người có thể thích nghi rất tốt với sự vận động của cuộc sống trong khi vẫn âm thầm gây tội ác mà không hề để lộ sở hở nào. Nói một cách khác, chúng không biểu lộ sự rối loạn một cách rõ ràng, và khi chúng, những kẻ "lầm đường lạc lối", dưới lớp vỏ bọc đạo đức có thể che giấu mọi chuyện trong sự ôn hòa giả tạo mỗi ngày. Trong số những đặc tính nguy hiểm nhất của họ đó là sự vô tâm đến nhẫn tâm đối với quyền và lợi ích của người khác và xu hướng vi phạm các chuẩn mực xã hội. Họ có thể dụ dỗ và lôi kéo những người khác vì mục đích riêng của bản thân, lừa gạt mà không cần quan tâm đến cảm nhận của bất kì ai. Thực tế đã cho thấy, chúng không nghĩ rằng những người xung quanh chúng là con người.
Theo kết quả điều tra cho thấy rằng đa số những kẻ sát nhân đều có dấu hiệu của hội chứng rối loạn nhân cách, tức là chúng đề cao giá trị bản thân, bốc đồng, nhẫn tâm và có xu hướng đổ lỗi cho người khác để làm chính mình như thể là một nạn nhân. Những cuộc thí nghiệm về nội soi cắt lớp não bộ đã chỉ ra rằng chúng không thể kiểm soát toàn bộ những cảm xúc trong các tình huống cũng như là việc cảm thông, quan tâm hoặc cảnh giác, họ có xu hướng tìm kiếm cảm giác kích thích, hưng phấn. Hành vi phạm tội của chúng thường tàn bạo hơn so với những loại tội phạm khác, hung hăng hơn và đa dạng hơn. Một tỉ lệ cao cho thấy người phạm tội tái phạm. Chúng cương quyết từ chối điều trị và không chịu đựng được nỗi thất vọng. Không quan tâm người mà chúng gây tổn hại là ai, không cần biết vấn đề gì xảy ra khi chúng đạt được mục đích cho bản thân -tiền, trung tâm của mọi sự chú ý, cảm giác hồi hộp, báo thù, thõa mãn các vấn đề sinh lý và với những thi thể. Chúng tìm nạn nhân một cách dễ dàng bởi vì chúng rất giỏi trong việc giao tiếp, có sức hút và khả năng lợi dụng người khác. Trong khi đó, các nạn nhân thường cả tin, không có sự nghi ngờ và rất ngây thơ. Chúng không lo lắng về hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai.Vì vậy, với những kẻ sát nhân đang trà trộn vào giữa mọi người, vào những ngôi nhà và trong mỗi gia đình, chúng có thể đi nhà thờ (mặc dù không có cuộc đấu tranh nào trong nội tâm) và thậm chí được đánh giá là người hàng xóm tốt bụng. Chúng biết cách cư xử để tránh sự nghi ngờ hoặc phát hiện. Nhưng chúng luôn tìm kiếm những cơ hội-chọn một công việc ổn định, để mà có cơ hội gặp những nạn nhân tiềm năng, ví dụ- khi đến thời điểm thích hợp, chúng không ngần ngại khai thác họ ngay lập tức. Chúng ta muốn phát hiện ra chúng song chúng lại thường phát hiện ra chúng ta trước tiên. Sự đề phòng tốt nhất đó chính là nhận ra mối nguy hiểm tồn tại giữa chúng ta và chúng, bỏ qua sự cả tin, biết được những kĩ xảo lừa dối của chúng và phải từ chối chúng ngay. Vậy làm thế nào để có thể nâng cao khả năng phân biệt người thường với một con quái vật?
Robert J. Homant, một nhà tâm lý học hình sự có nhiều kinh nghiệm với tội phạm xâm hại tình dục và Daniel B. Kennedy, nhà tội phạm học chuyên giải quyết các vụ án của cảnh sát, đã xem xét các tài liệu về sát nhân hàng loạt và tập trung vào những tên sát nhân xâm hại tình dục tàn bạo hàng loạt. Sau khi nghiên cứu một vài phương thức phân loại dựa trên động cơ gây án được đề xuất bởi các chuyên gia, họ đã tổng kết lại thành ba kiểu mẫu với những quyền hạn hợp lý:
1. Kiểu kiểm soát chấn thương tâm lí (Eric Hickey) một vài sự kiện chấn động xảy ra trong quá trình phát triển của một người, và người này trở nên dễ bị kích động và có khuynh hướng sinh lý là phản ứng lo lắng, giận dữ, ngượng ngập và ngờ vực; cá nhân này đổ lỗi cho các nguyên nhân khách quan và phản ứng dữ dội để lấy lại trạng thái cân bằng hoặc lòng tin ở bản thân.
2. Kiểu có động cơ (Robert Ressler, Ann Burgess, John Douglas) – việc hình thành một kẻ sát nhân hàng loạt là hậu quả của sự tương tác giữa năm yếu tố định hình nhân cách. Đó là: môi trường xã hội không hiệu quả; những khủng hoảng thời thơ ấu; trốn tránh thực tại bằng những mộng tưởng; những thất bại cá nhân; và các đặc điểm tiêu cực, hay các hành vi được củng cố bởi hệ thống tín ngưỡng, giúp hợp lý hóa và tự bào chữa cho ham muốn thống trị và điều khiển của cá nhân đó.
3. Ham muốn giết người do lệch lạc tình dục (Bruce Arrigo, C. E. Purcell) – hành vi là kết quả của một căn bệnh, khi những phản ứng hóa sinh của thần kinh gặp trục trặc trong việc lan truyền và phối hợp những thôi thúc tình dục mạnh mẽ.
Cũng có một ý kiến khác bổ sung cho những kiểu mẫu trên đến từ Al Carlisle, nhà tâm lý học đã từng làm việc với các tù nhân tại nhà tù tiểu bang Utah. Ông mô tả những tên sát nhân hàng loạt như một tâm hồn riêng lẽ, hoặc một bản ngã được phân chia của một cá nhân. Những kẻ này cố tình thể hiện công khai là một nhân vật tốt, trong khi đó ở bên trong chúng lại nuôi dưỡng một khía cạnh đen tối hơn giúp tạo nên thế giới mộng tưởng tự do tàn sát của riêng chúng. Bởi vì chúng có những ký ức đau thương vì bị ngược đãi thời thơ ấu, sự chán chường, hay nỗi thất vọng vì bị bắt nạt hay những việc tương tự, chúng đã học được cách sử dụng trí tưởng tượng để trốn tránh thực tại, tự xoa dịu bản thân và thậm chí là phát triển một nhân dạng thay thế quyền lực hơn hoặc có thân phận tuyệt vời hơn. Những ảo tưởng này có thể trở nên mãnh liệt và đòi hỏi sự giải thoát, chính những tình huống thực tế có các nét tương đồng với ảo tưởng trước đó có thể thúc đẩy những mộng tưởng này biểu hiện ra bên ngoài. Ví dụ, Jerome Brudos, thường xuyên bị mẹ mình nạt nộ, có thể cảm thấy thỏa mãn với những ảo tưởng tình dục về giày và đồ lót của người phụ nữ trẻ đến nhà hắn bán bách khoa toàn thư. Khi gia đình Brudos đều đi vắng, hắn đã có được cô gái cho riêng mình; và đó dường như là cơ hội hoàn hảo để hắn thực sự thực hiện những điều bản thân đã ấp ủ từ lâu. Hắn giết cô gái, cắt bỏ chân cô ấy để giữ trong ngăn đông (dùng cho mục đích chụp ảnh và thử giày), và hắn nhận ra rằng mình không chỉ thích thú với trải nghiệm này mà còn muốn lặp lại nó lần nữa. Trong thế giới ảo tưởng, việc biểu hiện những ham muốn, những khao khát, những nguyện vọng không thể kiềm chế ấy dần trở thành một phần ngang bằng với phần nhân cách tốt; do đó những tên sát nhân thường tồn tại hai phần nhân cách cân bằng nhưng đối lập nhau. Khi cuộc sống bình thường trở nên không còn thú vị nữa hoặc có nhiều thất bại, trở nên đầy thất vọng, thế giới ảo tưởng lại càng trở nên hấp dẫn hơn. Cuối cùng, khía cạnh tàn bạo trở nên mạnh mẽ hơn qua những cơ hội cũng như những quá trình lặp đi lặp lại mộng tưởng tinh thần, và những ảo tưởng không giới hạn đó phát triển thành một thói quen không thể dập tắt. Tuy vậy, Carlisle thừa nhận rằng " quá trình bệnh lý dẫn đến sự phát triển của những thèm muốn ám ảnh (và rất có thể là cơn nghiện) giết người vẫn là một trong những bí ẩn tâm lý phức tạp nhất chưa được giải đáp".
Khi những tên sát nhân trốn thoát khỏi những hành động giết người này, chúng học được cách tốt nhất để đánh lạc hưởng người khác khỏi những bí mật của chúng và tận hưởng việc không phải nhận trách nhiệm về những tội ác đã gây ra. Chúng đặt ra những khuynh hướng giá trị khác nhau cho những hệ thống xã hội tương ứng và nhờ đó có thể nói chuyện một cách thuyết phục về tụ điểm được xã hội chấp nhận đúng sai, nhưng không e ngại về những hành vi đáng lên án của chúng. Cuộc sống bí mật này dần đen tối và lầm lạc hơn, vì những đạo lý bào chữa cho góc khuất này đều là những lời ngụy biện từ chính kẻ sát nhân chứ không phải từ những luân thường đạo lý mà chúng vốn được dạy dỗ để trưởng thành và hòa hợp với mọi người. Chúng có thể cảm thấy thỏa mãn về tội ác của chúng trong khi vẫn lên án những điều tương tự ở người khác, có thể là chỉ trích việc li hôn, lối sống phóng khoáng của giới trẻ, hoặc là tệ nạn mại dâm (như Gacy từng làm). Chúng cũng có thể thực hiện hoạt động ở mức độ cao trong cuộc sống bình thường trong khi tìm kiếm nạn nhân, bởi việc tàn sát giúp chúng đạt được những điều chúng nghĩ là cần thiết cho bản thân.
Carlisle đề xuất rằng khả năng lặp lại việc giết người và phân hóa bản thân xảy ra trong quá trình phát triển từ ba quy trình cơ bản sau:
1. Ảo tưởng – chủ thể tưởng tượng ra những viễn cảnh để tiêu khiển hoặc để tự an ủi bản thân
2. Phân ly – chủ thể tránh những kí ức và cảm xúc khó chịu
3. Chia nhỏ nhân cách – chủ thể chuyển những hình ảnh và ý tưởng khác nhau đến những hệ thống thần kinh chuyên biệt và vạch ra ranh giới giữa chúng.
Mơ mộng quá nhiều, như những đứa trẻ cô đơn, rụt rè hoặc dễ hoảng sợ thường hay làm, có thể đặt nền móng cho con người sau này chúng sẽ trở thành và cách mà chúng hành động. Một số đặc tính hay thay đổi như thái độ thù địch, thách thức, giận dữ và nhu cầu được cảm thấy đặc biệt có thể hình thành và được củng cố trong thế giới tưởng tượng. Cá nhân cũng có thể đạt được sự thảo mãn về tình cảm và tình dục bằng hình ảnh, những cảm giác và hành động – mà chúng biết sẽ không được ủng hộ – được chúng chôn vào những ngăn chứa bí mật để nhấm nháp và củng cố khi chúng một mình. Ảo tưởng cũng xây dựng sự thèm muốn được trải nghiệm thực tế. Có khi những vật chúng tôn sùng như là quần áo lót hoặc búp bê có thể giúp nâng cao trải nghiệm, nhưng đến cuối cùng, ngay cả khi trí tưởng tượng có ảnh hưởng tâm lý để tạo ra một danh tính bí mật thì cũng không đủ để thỏa mãn chúng. Tuy nhiên, sự ham muốn này phải luôn được giữ kín trong hầu hết các trường hợp. Như Ted