Đợi mấy hôm, bố hắn và chú Hạnh rút ngắn thời gian dự định ở chùa Hương trở về. Các thầy, Tùng kều và anh Vĩnh đều đến nhà hắn để đợi xem, rốt cuộc bên trong cái hộp đồng bí ẩn kia có cái gì mà phải cần đến ba cái chìa khóa mới mở được. Mọi người tụ tập trên gian thờ nhà hắn cười nói xôn xao. Thầy Giáp về râu, mặt vênh như cái bánh đa nướng
- Vụ này mà không nhờ tôi còn lâu mới tìm được cái chìa khóa cuối cùng này nhé
- Phải rồi... phải rồi, lần này ghi công đầu cho ông. Không phải ông đào trộm cổ vật thì cũng chẳng ai tìm ra cái hầm đá đó. Giáo sư Lê nói.
- Không nhờ chỗ ấy của thầy thì có khi cũng chẳng mang nổi ra ngoài ấy chứ. Anh Vĩnh cười nhe nhở cặp mắt dòm dòm vào đũng quần thầy Giáp
Thầy Giáp bầm tím ruột gan, cực kỳ căm phẫn cái đám người chả biết đến một lời cảm ơn. Kể ra lão cũng có tí tẹo máu tham, chỉ tí tẹo thôi! Ấy nhưng mà không nhờ lão thì có tìm ra cái giếng chắc, lại còn cái trận đồ mù mịt sương đen đó nữa chứ, còn khướt mới ra được ấy.
Bố hắn từ trong tủ khẽ khàng lôi ra cái hộp bằng đồng sáng bóng, trạm nổi những đóa hoa sen rực rỡ. Hai chiếc chìa vẫn cắm trên thân hộp. Từ từ tra chiếc khóa cuối cùng, khẽ xoay nhẹ. Một tiếng "cạch" vang lên, nắp hộp bật lên mở bung ra. Mọi người đang chúi đầu nín thở ồ lên một tiếng.
Chiếc hộp được cấu tạo hai lớp, lớp bên ngoài chứa một thứ chất lỏng có ánh bạc. Lớp bên trong có thêm một chiếc hộp đồng nhỏ hơn nắp được gắn bằng nhựa thông.
- Cẩn thận là thủy ngân đấy. Bố hắn bịt mũi nói
Hắn vội vàng tìm một cái lọ thủy tinh để đổ thủy ngân ra đậy nắp kín lại. Chỗ thủy ngân này mà nhiễm xuống nguồn nước hoặc bay hơi trong không khí thì hại chết ối người.
Bố hắn dùng dao nạy nắp cái hộp nhỏ bên trong. Qua vài phút cái hộp bị cạy bung nắp. Bên trong hộp có một cuộn da bò và một miếng đồng đen nhỏ bằng nửa lòng bàn tay hắn. Bên trên miếng đồng trạm nổi hình các linh phù . Từ miếng đồng đen tỏa ra hào quang vàng rực, các lằn điển quang nhấp nháy như điện giật tỏa ra bốn phía. Giờ hắn mới hiểu vì sao chiếc hộp đồng này lại phát ra hào quang vàng rực giữa đám cổ vật dưới lòng sông bị tà khí ám nhiễm đen xì xì. Là miếng bùa bằng đồng này nó không ngừng phát ra hào quang sáng rực.
Thầy Hùng, thầy Vũ, thầy Cường chúi đầu xem các hình linh phù được trạm nổi trên miếng đồng. Cả ba đều cho rằng đây có thể là một miếng Hộ phù dùng để hộ thân. Người làm được miếng hộ phù này pháp rất cao thâm. Bố hắn lấy miếng da bò ra đưa cho Giáo sư Lê
- Anh Lê đọc cái này cho mọi người nghe. Trình độ Hán Nôm của anh cao hơn chúng tôi
Khuôn mặt Giáo sư Lê lúc thì dãn ra, khi nhăn lại. Có lúc vui mừng rồi lại thất vọng. Cá đám người ngồi im mắt tròn vo tràn đầy mong chờ.
Trên tấm da bò chi chít ghi chép, chỗ mờ chỗ tỏ. An Nam tứ thần khí khi xưa chính là bốn vật quốc bảo: Tượng Phật ở chùa Quỳnh Lâm khổng lồ cao hai mươi mét, cao ba mươi, ở chùa Một cột nặng khoảng hơn bảy tấn, vạc Phổ Minh ở cung Trùng Quang Nam Định nặng hơn ba tấn. Tứ đại thần khí này vô cùng to lớn đều được đúc bằng đồng đen riêng tháp Báo Thiên chỉ đỉnh tháp được đúc bằng đồng.
Năm 1407 khi giặc Minh sang xâm chiếm, bọn chúng đã cướp tượng phật đưa về Thiên triều. Năm 1426, Vương Thông – Tổng binh tại Giao Chỉ nhận thấy Tam đại thần khí đều đúc từ đồng đã thành khí, năng lượng vô cùng lớn. có khả năng trấn hưng linh khí của đất Việt. Vì vậy Vương Thông quyết lòng phá hủy Tam Đại Thần Khí, nhanh chóng đúc thành vũ khí để sử dụng.
Đồng đen được tập kết về bên ngoài thành Đông Quan (tức thành Thăng Long). Liên Hoa đã cử bốn người là Lục Cao, Cát Bằng, Nguyễn Quảng và Thị Yến trà trộn vào xưởng đúc đồng giả làm thị nữ và sai dịch để đánh cắp đồng đen ra ngoài.
Biết được giá trị vô hình cũng như hữu hình của số đồng đen này. Vương Thông cho quân lính canh phòng nghiêm ngặt, mời đến bảy Pháp sư ngày đêm ở trong phủ bàn bạc tính toán. Sau nhiều ngày quan sát theo dõi, cuối cùng bốn người cũng lấy được một khối lượng đồng đen tương đối lớn chuyển ra ngoài. Không ngờ trên đường trốn chạy bị phát hiện. Cát Bằng bị quân Minh giết chết. Thị Yến vốn là vợ chưa cưới của Cát Bằng thấy vậy đau lòng quá tự sát chết cùng.
Lục Cao và Nguyễn Quảng đem được đồng đen chạy về Sơn Tây. Tại đây các thầy dẫn đầu các nhánh tụ tập nhau lại đúc ra bốn vật là: Thanh Kiếm, Tay Phật, Lá Bồ Đề và Bánh Luân Xa. Mất bảy bảy bốn chín ngày nhập thất luyện thành pháp khí. Thiên Nam thần khí ra đời trong sự vui mừng cũng như lo lắng của mọi người.
Theo ghi chép, thanh kiếm được đặt tên là Thiên Kiếm được đúc bằng đồng đen hoàn toàn, trên thân kiếm trạm nổi hình rồng bay lượn trên mây vô cùng uy vũ. Chuôi kiếm đúc nổi chữ Thiên Nam nhất Bảo khí.
Bàn Tay Phật được đúc bằng đồng đen, trên tay cầm một viên Dạ minh châu phát sáng trong đêm đen. Trên viên Dạ minh châu khắc chữ Thiên Nam nhị Thần khí.
Lá bồ đề được trạm trổ công phu từ một miếng Bạch Kỳ Nam lớn đặt trên đế hoa sen bằng đồng đen. Mùi thơm ngát trăm năm không dứt. Trên đế có khắc chữ Thiên Nam Tam Thần khí.
Cuối cùng là Bánh Luân xa được đúc hoàn toàn từ đồng đen, ở giữa nạm một viên đá đỏ. Đặt trên bệ hoa sen có khắc chữ Thiên Nam Tứ Thần khí.
Ngay sau khi thần khí thành tựu, Lục Cao, Nguyễn Quảng và hai người nữa được trao cho mỗi người một thứ thần khí đi về bốn phía tìm nơi cất giấu. Trên đường đi, quân Minh phát hiện ra sự thật Thần khí lại thành hình nên cử rất nhiều Pháp sư phương Bắc truy đuổi. Lục Cao và Nguyễn Quảng hoàn thành sứ mệnh cất dấu bảo khí. Hai người còn lại bỏ mình nơi rừng sâu nước thẳm, trước khi chết chỉ kịp để lại manh mối cho Liên Hoa.
Từ manh mối còn sót lại, Lục Cao và Nguyễn Quảng chia nhau tìm ra hai thần khí