Lại nói Phật Khố Luân bỏ mặc hai chị lại sau, chạy lên núi, đưa mắt tìm kiếm mọi nơi mà chẳng thấy con mang đâu cả. Giữa lúc xuất thần ấy bỗng nàng nghe đằng sau có tiếng thở phì, liền quay đầu lại, mổ hôi toát ra như tắm. Đáng thương cho hai cặp giò của nàng, chúng mềm ra như bún, khuỵu xuống không còn cách gì để nâng nổi tấm thân lên mà chạy nữa. Thì ra, đằng sau nàng là con cọp vằn to lớn phóng từ khu rừng ra, giơ vuốt nhe nanh chộp nàng. Phật Khố Luân là một cô gái nhỏ thì làm gì có can đảm chống lại con thú dữ! Con mãnh thú đã phi tới gần sát sau lưng nàng bèn đập đuôi, gầm lên một tiếng lớn, rồi đứng thẳng lên như người, giơ hai chân trước to bằng hai cái quạt nan có vuốt sắc tua tủa, chộp ngay vào vai nàng. Tội nghiệp cho nàng, ba hồn chín vía lúc đó bay lên tận trời xanh, nằm vật ra trên mặt tuyết bất tỉnh nhân sự, mặc cho con mãnh hổ tha đi đâu thì tha.
Nàng mê đi không biết đã bao lâu, rồi bông bên tai văng vẳng tiếng người khẽ gọi. Nàng dần dần tỉnh lại và mở mắt.
Đang hoảng sợ nàng chọt cảm thấy kinh dị. Bới vì con mãnh hồ trước mắt bỗng nói lên tiếng người, khe khẽ bảo nàng:
- Cô nương đừng sợ. Tại hạ là Ô Lạp Đặc đây!
Trong khi nàng đang ngơ ngác thì con cọp vằn đã đưa hai chân lên kéo soạt một tiếng, tấm da cọp khoác trên mình bật tung ra sàn, để lộ một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặt mũi sáng sủa, mình cao ngực nở, chân tay vạm vỡ, dáng điệu thật oai ùng. Đằng sau chàng, lại có đến sáu bảy tên đại hán cũng cao hùng dũng.
Ô Lạp Đặc quay bảo bọn đại hán khiêng cái ghế xích đu kết bằng dây lại rồi tự mình gọi Phật Khố Luân dậy đặt nàng vào trong ghế, ôn tồn bảo nàng:
- Cô nương đừng sợ! Chiếc dây kéo này chắc lắm, không thể đứt được đâu!
Vừa nói chàng, vừa lấy tay lắc lắc sợi dây dài, thòng từ trên đỉnh núi cao, lơ lửng giữa khoảng không. Nàng la hoảng, hai tay ôm ghì lấy chiếc ghế, mắt nhắm nghiền. Nàng có cảm giác như mình đang lướt mạnh trong mây, bay lên tận đỉnh núi. Bỗng chiếc dây kéo ngừng lại. Nàng mở mắt ra xem, thì đó chính là mỏm Lạc Đà, trước miếu Chân Chân.
Miếu Chân Chân là gì và hình dạng ra sao? Nguyên lai, trên đỉnh núi này có một phiến đá đỏ lớn chìa ra ngoài như một mái nhà để lộ bên dưới một cái động sâu hoắm, từ chân núi nhìn lên nó tựa một cái miếu nhỏ có tầng đỏ thắm.
Ô Lạp Đặc lúc đó đã lên tới đỉnh núi. Từ trong động chạy ra hai đứa bé gái, dắt tay Phật Khố Luân tiến thẳng vào trong.
Cửa động có hai bức màn lụa lớn màu đỏ che kín. Hai đứa bé gái tháo bức màn lên, bên trong đèn đuốc sáng trưng. Ở bốn vách treo nhiều tấm màn da, trải một tấm đệm dày. Trên chiếc giường mới trải một tấm nệm gấm đặt song song đôi gối thêu. Tóm lại căn động trước trang trí một cách hoa lệ.
Phật Khố Luân ngồi xuống giường, mặt cúi gằm, tay mân mê tà áo chẳng nói một lời nào. Ô Lạp Đặc bước lại trước mặt nàng, chắp tay lạy ba lạy, lại nằm bò xuống đất, dập đầu tỏ vẻ hết sức cung kính. Nàng mắc cỡ quá vội đứng dậy, quay mặt đi chỗ khác, và chẳng thèm quay lại nữa. Nàng chỉ nghe Ô Lạp Đặc vẫn nằm bò dưới đất, nhỏ nhẹ nói:
- Tên Ô Lạp Đặc này bình sinh là một thám tử lòng gan dạ thép, chưa bao giờ mềm yếu trước phụ nữ, trong thôn Lê Bì Cốc tại hạ, biết bao nhiêu là cô nàng xinh đẹp. Từ trước đến nay, tại hạ thực chẳng bao giờ để ý đến họ. Nhưng từ khi gặp cô nương dưới ánh trăng trong, bên hồ nước băng tại hạ đã nguyện đem tất cả tâm hồn giao phó cho cô nương. Hơn nữa, cô nương lại còn vui lòng cho phép tại hạ tương kiến ở Chân Chân miếu. Thành thử tại hạ ngày đêm ăn không ngon, ngủ không yên, ngồi đứng cũng bâng khuâng mong nhớ. Tại hạ phí bao nhiêu tâm tư đặt kế tìm phương đến đỉnh núi này, trần thiết trang hoàng căn động này. Đôi khi tại hạ có ý xông vào thôn để cướp lấy cô nương đem về nhưng lại sợ cô nương giận và mang tiếng cho cô nương. Tại hạ chỉ còn cách ngày ngày âm thầm dò thăm tin tức để đón lấy một dịp tốt. May thay, được tin cô nương lên núi đi săn, tại hạ liền giả trang làm cọp chờ đợi dưới chân núi. Hình như ông trời cũng có lòng thương cho nên cô nương quả nhiên đã tới. Đã tới chốn này rồi thì đó thực là cô nương đáp ứng lời hẹn tương kiến tại miếu Chân Chân với tại hạ. Và từ bây giờ, tại hạ xin bỏ hết mọi việc để ở lại động núi này hầu hạ cô nương, xin cô nương vui lòng cho phép!
Thật là một thiên tự sự hàm chứa biết bao ý nghĩa yêu đương tha thiết. Phật Khố Luân lòng cảm động đến cực độ, hai má ửng hồng, miệng tuy không nói nửa lời nhưng cặp mắt huyền đa tình đã liếc nhanh về phía tri kỷ mà mãi hôm nay nàng mới được gặp.
Từ đó hai người như chim liền cánh, như cây liền cành. Bất cứ khi đứng khi ngồi, lúc ăn lúc ngủ, chàng và nàng không một chút nào rời nhau nữa. Sơn động trước đây vắng vẻ, lạnh lùng thì nay lại ấm cúng, thi vị. Cặp mắt nhân duyên trời định trước tưởng hết muôn ái nghìn ân trong lòng sơn động trang trí huy hoàng. Có khi họ ngồi cạnh lò sưởi, kể cho nhau nghe các chuyện vui trẻ thời niên thiếu thơ ngây. Có khi họ đối diện với hoa tươi cỏ biếc mà cầm kỳ, thi tửu. Bao nhiêu ngày tháng đối với họ đã mất đi trong lãng quân. Rồi một mùa đông qua.
Trời đất bước sang xuân, Phật Khố Luân một hôm ngẫu nhiên nhìn qua cửa động chỉ thấy tuyết tích khắp sơn khê trắng xoá một màu, nàng phóng tầm mắt ra xa hướng về phía quê cũ cảnh xưa, đồi núi nhấp nhô chẳng khác gì điện ngọc lầu vàng cao vút lên không trung, nàng lại nhìn về phía tây một dãy nhà thấp lè tè trong sơn ao hiện rõ mồn một. Nàng biết đó chính là nhà nàng. Nàng nhớ tới cha mẹ chẳng biết giờ này đau khổ ra sao, bất giác hai hàng lệ từ từ lăn trên gò má lúc nào không hay. Nàng cảm thấy lòng tê tái, vội quay vào trong động, ngồi lặng lẽ trên chiếc giường đệm gấm, gối bông để cho nước mắt tuôn xuống như mưa.
Ô Lạp Đặc thấy vậy vội chạy lại giơ hai tay ôm nàng vào lòng, rồi thì thầm an ủi. Phật Khố Luân tuy một mặt nhớ tới cha mẹ nhưng mặt khác không thể bỏ được người yêu trước mặt. Chàng tận lực truy vấn, lúc đó nàng mới đem tâm sự mình ra nói cho chàng hay. Ô Lạp Đặc nghe xong cúi đầu suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Anh sẽ mạo hiểm đưa em về nhà!
Phật Khố Luân, lắc đầu lia lịa rồi nói:
- Như vậy không được đâu! Gia đình em thù anh đến tận xương tuỷ. Anh lại còn bắt cóc em đi nữa. Như thế thử hỏi, cha mẹ có chịu để anh yên thân không? Chuyến này nếu anh ra đi, ắt tính mạng khó toàn. Tốt hơn hết là anh cho em trở về một mình, khi gặp cha mẹ em sẽ có cách ăn nói.
Chàng tưởng đến cái cảnh chia tay não nề sắp tới, bất giác nhỏ mấy giọt lệ anh hùng thấm ướt cả khăn nàng. Với một giọng ảo não thê lương, chàng nói:
- Em ra đi có liệu cách tính nào cho anh chăng?
Nàng nghe câu đó, lòng se lại, ruột như đứt ra trăm đoạn.
Nàng tự nhủ thôn Bố Nhĩ Hồ Lý có kẻ trai nào đa tình được như chàng đâu. Song đã là kẻ thù truyền kiếp của nàng thì cái đoạn nhân duyên này thực không thể nào thành tựu được. Mà đã thế thì từ đây đời nàng đành chịu cô đơn lạnh lẽo. Nàng không còn chút hy vọng gì cùng chàng thành đôi vợ chồng trăm năm đầu bạc. Nghĩ tới đó nàng giật mình sợ hãi. Nàng cố xua đuổi ý nghĩ rùng rợn đó. Và trong lúc thảng thốt, nàng phản ứng mãnh liệt, miệng vừa nói mắt vừa nhìn chằm chằm vào mắt chàng:
- Phen này em trở về thăm cha mẹ, phải chăng đây là cuộc vĩnh biệt đau lòng? Anh ạ! Sớm là sáu tháng, chày là một năm, anh nên tính cách đi tìm em để cho em được cùng anh thành đôi vợ chồng bách niên giai lão. Em chỉ sợ lúc đó anh thay lòng đổi dạ mà thôi!
Ô Lạp Đặc vừa nghe đến đây liền rút trong bọc ra con dao nhỏ, đâm một nhát vào cánh tay, máu chảy ròng ròng. Chàng cầm lấy chén rượu đưa lên hứng máu rồi chuyển đến miệng nàng. Phật Khố Luân tiếp lấy uống cạn một nửa còn một nửa chàng cấm lấy uống nốt. Đây là một cách lập thệ tối trọng của dân địa phương vùng Tràng Bạch, có nghĩa là, nếu phản bội lời thề thì sẽ bị giết chết và còn bị sát thủ uống máu mình.
Phật Khố Luân thấy Ô Lạp Đặc tự đâm một nhát dao nên càng quyến luyến không muốn rời chàng, nàng vội dịt vết thương cho chàng rồi đỡ chàng nằm xuống an nghỉ.
Hai người ở lại trong động tiên mười ngày nữa. Một đêm nọ, trăng sáng như ban ngày, vành trăng vành vạnh toả ánh vàng xuống đồi cây ngọn núi. Cặp tình nhân ngồi kề vai ngoài cửa động ngắm trăng. Quang cảnh huyền ảo của đêm trăng càng làm cho Phật Khố Luân tưởng nhớ tới cha mẹ. Nàng đã bao phen thấm ướt khăn hồng. Ô Lạp Đặc phần thương người yêu phần khích động hùng khí, liền dặn bảo gia nhân treo ghế xích đu lên. Hai người cầm tay nhau mãi, rồi chàng đứng trên đầu núi bùi ngùi trông xuống, cho tới khi người yêu mất bóng mới thở dài, trở vào động.
Lại nói Cán Mộc Nhĩ khi lạc mất cô con gái cưng Phật Khố Luân, lúc nào cũng đau khố buồn rầu. Ngày nào cũng vậy, ông đem người đi khắp núi trước núi sau để tìm kiếm. Ông đã tìm kiếm đến một tháng mà tung tích con chẳng thấy đâu.
Ông ra thở vào than, sờ tai gãi má, lắm lúc như ngây dại. Bà Cáp cũng không hơn gì. Bà nhớ tới con gái mà lòng đau như cắt, kêu khóc thảm thiết rồi ốm nằm liệt giường. Hai người chị mắt thấy Phật Khố Luân bị cọp bắt tha đi lòng càng chua xót trong lòng. Người nào cũng khóc ngất từng hồi. Đám gia nhân thảy đều mặt buồn rười rượi. Ngoài trời hồi đó còn giữa đông, băng tuyết bạt ngàn, tình đã thê thảm mà cảnh lại thê lương, thành thử gia đình trước kia vui vẻ bao nhiêu thì ngày nay lại lặng lẽ bấy nhiêu.
Không bao lâu, đông qua xuân tới. Cô chị Ấn Khố Luân đã trở về nhà chồng. Trong nhà chỉ còn lại mình Chính Khố Luân. Nàng lúc nào cũng ủ rũ, đêm đến ghé lại giường mẹ ngồi để an ủi, luôn tay khâu giày vả dép dưới ánh đèn, lòng nhớ tới em mặc cho lệ tràn sóng mắt.
Bỗng một đêm canh khuya, mọi người ngạc nhiên thấy cánh rèm rung động. Rồi một bóng người lách cửa bước vào. Mọi người nhìn kỹ thì chẳng phải ai xa lạ, chính là người mà cả nhà mỏi mắt đợi trông đã bấy lâu nay. Người đó chính là Phật Khố Luân. Chính Khố Luân thấy em gái bước vào vội la lên một tiếng sung sướng, nhảy tới trước, giơ hai tay ôm chầm lấy nàng, miệng nói:
- Trời ơi! Em tôi đã về!
Bà mẹ đang ngủ, giật mình tỉnh dậy, mừng rỡ khôn xiết.
Bà kéo nàng vào lòng, hôn lấy hôn để vào mớ tóc mây của cô gái cưng xa nhà đã lâu ngày. Toàn gia, già trẻ trai gái; được tin đều chạy ùa vào phòng để thăm hỏi. Ông Cán Mộc Nhĩ cầm lấy tay con, giọt ngắn giọt dài, hỏi hết mọi điều. Nàng đứng trước mặt cha không dám nói thật. Nàng bịa chuyện rất khéo, đến nỗi cả nhà đều tin là thật.
Hôm đó, nhìn thấy con cọp vằn, con sợ quá ngất đi. Cọp tha con qua không biết đến mấy triền núi. May thay mấy người thợ săn đuổi bắt được cọp, cứu con khỏi miệng cọp. Thấy hông con bị thương, họ liền đưa về nhà chữa chạy. Gia đình họ có một mẹ già, bà ta săn sóc con rất chu đáo. Hai tháng qua vết thương vừa lành thì con lại sốt. Gia đình họ sống trong lều. Bởi vậy khi con sốt mê man bất tỉnh, họ phải chuyển đi hết chỗ này đến chỗ khác, càng ngày càng xa dần. Lúc hết bệnh con mới biết họ đưa con đến mã trại Hà Dương!
Ông Cán nghe đến đây liền thốt lên:
- Úi chà! Trại Hà Dương cách đây những tám trăm dặm. Vậy con làm cách nào về được tới đây?
Phật Khố Luân tiếp lời cha nói:
- May thay giữa đường con gặp một bọn thợ săn khác quen họ. Bọn này nói họ qua phía Bắc núi Trang Bạch để bắn chim điêu. Nhờ đó, con mới xin bọn này giúp đưa con về nhà.
Cả nhà nghe kể ai cũng tin nàng nói thật chứ có ngờ đâu đó là chuyện bịa!
Đêm hôm đó, nàng lại cùng chị là Chính Khố Luân chui vào chăn nằm cùng giường ngủ như xưa. Ngày hôm sau, Ấn Khố Luân, cúng đã được tin, vội chạy về thăm em. Ba chị em được đoàn tụ như trước, người nào cũng vui mừng khôn xiết.
Thôi thì hết chuyện này qua chuyện khác, họ cười nói suốt đêm mà không chán. Phật Khố Luân lâu ngày gặp chị nên cấm tay chị, không cho về nhà riêng với chồng nữa. Từ hôm đó ba chị em lại ở chung một nơi để trò chuyện, hàn huyên. Toàn thôn thấy cô gái cưng của ông Cán trở về yên lành, ai cũng có ý mừng chạy tới hỏi thâm.
Mùa xuân qua, tiết trời đã sang tháng ba. Đây là mùa của hoa trà mi. Dưới chân núi Tràng Bạch, trăm hoa đua nở xinh tươi. Nào hạnh, nào đào, nào mận, tất cả đang trong mùa rực rỡ. Gió xuân mát mẻ, mặc một chiếc áo mỏng không còn thấy lạnh. Bởi vậy, dân chúng địa phương đã từ lâu phải chịu lạnh lẽo vì băng tuyết, nay được dịp xuân sang hoà ấm, ai lại chẳng muốn đi dạo chơi nơi bờ suối ven đồi để thưởng hoa hóng gió.
Lúc đó, từ trên mỏm Lạc Đà, một dòng thác trắng xoá đã bắt đầu đổ xuống. Tiếng nước dội vào đá, nghe ầm ầm ào ào suốt từ hạ qua thu. Trong đêm khuya, dân Tràng Bạch sực tỉnh giấc nồng, ai mà chẳng nghe thấy tiếng nước đổ trào ấy?
Đối với họ, những tiếng ấy đã quá quen thành nhàm nên chẳng có nghĩa lý gì, trái lại, đối với Phật Khố Luân thì nó có một tác dụng kỳ lạ làm cho lòng nàng rối loạn không lúc nào không xao xuyến, bâng khuâng. Đã có nhiều đêm, nàng thao thức năm canh, để mặc cho đôi dòng lề chảy xuống như mưa trên đôi má phấn mịn màng. Trai thanh gái lịch trong vùng xúng xính trong bộ y phục sặc sỡ diêm dúa để rong chơi đây đó, nhưng riêng Phật Khố Luân không ra khỏi phòng, chỉ suốt ngày âu sầu buồn bã ngồi lặng trên giường. Nàng nhớ tới khi cùng Ô Lạp Đặc ân ái trên mỏm Lạc Đà để mặc cho tâm hồn như si như mê, bay tới tận đỉnh núi. Mẹ nàng thấy nàng biếng ăn nhác ngủ, trằn trọc ngày đêm, cho rằng nàng bị bệnh nên vội đi khắp nơi cầu Thần, bái Phật. Duy chỉ có Ấn Khố Luân ngấm ngầm để ý và liệu biết đôi phần…
Một hôm, ông Cán Mộc Nhĩ nhận thấy con bị bệnh, bèn ời thầy pháp tới nhà bắt ma trừ tà. Trong nhà ngoài sân, trai gái, già trẻ được một dịp ồn ào, náo nhiệt. Ấn Khố Luân nhân lúc vắng người, lén vào phòng nàng thấy nàng ngồi bó gối âu sầu trên giường. Người chị ngồi sát bên cạnh, thì thầm bảo nàng:
- Này con quỉ ơi! Bên ngoài người ta đang cúng ày đấy! Liệu chị mày lại không đoán được bệnh của mày sao?
Phật Khố Luân thấy chị bắt được thóp giật mình, luống cuống không nói được nên tời, chỉ châm chằm nhìn vào mặt người chị như để dò xét, cầu cứu. Ấn Khố Luân trước thái đô đó lại càng tin thêm bảy, tám phần, bèn nói:
- Hãy khoan biện bạch! Em nghe lời chì hỏi đây. Em bảo em bị cọp cắn ngang hông tha đi, về sau chữa lành được, thế mà sao chỗ hông chẳng có vết sẹo? Em lại còn bảo em bị sốt nặng. Bọn ta người quan ngoại mỗi khi bị bệnh sốt nóng lạnh, người đau nằm liệt đến hàng vài, ba chục ngày mà chưa chắc đã khỏi, hoặc khi đã khỏi rồi sắc mặt cũng không thể phục nguyên mau chóng được. Huống hồ, trong khi bịnh em phải theo bọn du mục sống trong lều vải, chuyển hết chỗ này tới chỗ kia hết sức vất vả. Vậy mà sau khi em đau nặng, chị chẳng thấy có một chút nào gọi là đau cả, cũng chẳng thấy có một chút nào gọi là vất vả cả? Khi em về tới nhà, chị đã để ý cẩn thận thì thấy em chẳng có vẻ gì là tiều tuỵ, trái lại, gương mặt còn có vẻ xinh tươi hơn ngày xưa. Rồi lúc em kể nỗi khổ cực trên đường, chị thấy em nói năng hoạt bát vui tươi, chẳng thấy có một tí gì gọi là buồn bã âu sầu, trái lại, còn có vẻ mừng rỡ, hí hửng nữa. Tuy vậy ngoài miệng tuy xoen xoét nói khổ cực chứ thực trong lòng không phải vậy. Còn điều này nữa, em theo bọn du mục chạy hết chỗ này đến chỗ kia, cùng với tụi đàn ông sống chung trong lều thì quyết em không thể giữ tròn được danh tiết. Em biết rằng tụi đàn ông con trai nơi quan ngoại này, đứa nào thấy gái cũng lắc la lắc lém như chó đói thấy thịt, mèo hoang thấy mỡ. Bọn chúng vốn là một bọn săn bắn man rợ, thô lỗ. mà em lại là cô gái dậy thì xinh đẹp. Trong lúc gặp nạn em phải theo bọn chúng sống chung nhiều ngày, thử hỏi em có bản lĩnh gì đề bảo toàn được thân mình? Không thể bảo toàn được thân mình thì lúc về tới nhà em ắt phải khổ sở buồn rầu. Thế mà nay, sau khi về, em chẳng có vẻ khổ sở buồn rầu tí nào. Bởi vậy, câu chuyện của bọn du mục, theo phỏng đoán của chị, chỉ là một câu chuyện bịa thôi. Chị nói điều này em đừng giận nhé: chỉ đã quyết rằng ngày nay em không còn là một cô gái nhỏ nữa. Không còn là một cố gái nhỏ nữa nghĩa là trong bụng đã có con rồi, tức là có bầu rồi đó.
Phật Khố Luân nghe tới đây, đôi má phấn mịn màng bỗng đỏ ùng lên như gấc chín. Nàng chỉ thốt lên được một tiếng "á" rồi thì câm bặt, mặt xám ngoách lại. Ấn Khố Luân không muốn cho nàng phân trần liền nói tiếp:
- Mấy hôm nay em bệnh làm cha mẹ cuống quýt cả lên. Nhưng kỳ thực em đâu có bệnh. Giá có chăng nữa thì cũng chỉ tại cái "nghiệp chướng" trong bụng nó làm eo mà ra. Em đừng che chống nữa. Dù em không chịu nói ra thì cái dáng điệu uể oải, cái khí sắc men mét kia sớm đã cho chị rõ rồi. Thường thường em chẳng ói mửa đó sao? Đã chẳng thèm của chua đó sao? Tất cả những triệu chứng đó báo hiệu đứa bé trong bụng làm eo đó. Cha mẹ nhất thời bị em qua mặt vì lòng thương em, chứ chị thì làm sao em giấu nổi. Nếu không tin lời chị, em hãy lấy kiếng mà soi, em sẽ thấy mi tâm trên mặt xơ xác, trông còn già dặn hơn cả chị nữa! Em yêu quý của chị! Em hãy nói thật cho chị nghe đi. Em hãy nói tất cả những gì xảy ra cho em ở ngoài…
Ấn Khố Luân nói một thôi một hồi khiến Phật Khố Luân vốn có tật giật mình đành phải câm lặng. Những lời lẽ của chị đối với nàng quá rõ ràng rành mạch. Thật là một tiếng sét mà nàng không kịp bưng tai. Đã bao ngày nàng xa cách người tình chung cho nên lòng nàng không thư thái, mặt nàng không vui tươi được. Lại thêm cái bụng kia đã reo rắc hoạ căn, một bầu tâm sự vừa não nề sầu khổ, vừa xấu hổ lo âu. Nàng lo buồn hơn nữa là không có lấy một ai khả dĩ giúp mình để bàn tính mọi việc. Cho nên khi nghe chị nói đúng tâm can của mình, với những lời vừa chân xác vừa thân mật, nàng bất giác xúc động can tràng rồi bỗng nàng ngẩng đầu lẽn nhìn chị như có vẻ cầu cứu, sau đó ném cả thân hình vào lòng chị, nức nở không thành tiếng. Nàng ôm ghì lấy chị, mặc cho đôi dòng lệ tuôn trào ướt đẫm cả vai áo chị. Nàng thút thít khóc một hồi lâu, mấy lọn tóc mây trên đầu