Hôm đó, Quang Tự hoàng đế giá hạnh Tây Uyển.
Trên điện đã bày yến sẵn sàng.
Cẩn và Trân hai phi luân phiên chuốc chén, hầu hạ hoàng đế mặc sức vui say.
Đã từ hai chục năm, khi còn là một chú bé, Quang Tự hoàng đế được bế vào cung, ăn uống, ngủ nghi, chơi đùa, tất tất đều phải tuân theo ý Thái hậu, lúc nào cũng bị trói buộc vào thì khuôn phép, ra thì luật lệ, có bao giờ được cái cảnh tự do tự tại, tha hồ vui say, du ngoạn như hôm nay.
Bọn cung nữ và thái giám thấy Hoàng đế ngồi ngất ngưởng trên điện uống rượu mua vui bên cạnh người đẹp, cũng nháy nhau lẻn ra ngoài, ai lo chuyện người đó.
Có kẻ thì ra ngồi nhìn mặt nước phẳng lặng trên mặt hồ bên cạnh ngọn giả sơn, có kẻ lại chui vào trong bụi hoa, cạnh khóm trúc, trước hàng lan can vẽ rồng chạm phượng; lại cũng có những bọn túm ba tụm năm kéo nhau đi ngắm hoa đây đó, hoặc buông câu bắt cá, cười đùa khúc khích trên những phiến đá lớn ven hồ; và cũng còn có những bọn cùng nhau tựa cạnh bao lơn vui đùa ca hát buông những tiếng thầm kín hoặc véo von lên không trung giữa khoảng trời xanh mây biếc.
Quang Tự hoàng đế nhấp mấy chung rượu rồi thong thả đứng dậy, dắt tay hai nàng phi bước xuống điện, phía sau có một toán cung nữ và thái giám theo hầu.
Ngài bước chầm chậm qua phía trước mấy ngôi đình viện.
Những đoá hoa xinh tươi thơm phức chạm vào mặt ngài như có ý ghẹo ngài.
Mấy đọt cỏ non xanh khẽ lướt qua áo ngài, như thèm muốn giữ ngài lại nơi đây kẻo mất một giờ phút mê ly hiếm có giữa trần hoàn.
Hết khóm hoa này tới hàng bông khác, chỗ nào cung chỉ thấy màu sắc là màu sắc.
Cất bước quanh quẩn một hồi, Quang Tự hoàng đế đã tới gác Tử Quang.
Liếc mắt về phía đông, đầu ngọ tường vôi, ngài bỗng thấy dưới gốc cây hoa hạnh có đến vài chục tên cung nhân trải chăn trên thảm cỏ, dưới tàn hoa lá, ngồi xếp bằng cạnh nhau, vừa chuốc chén vừa ca hát, vô cùng cao hứng.
Bọn thái giám theo hầu hoàng đế đang tính chạy tới quát mắng, thì Quang Tự hoàng đế vội xua tay ngăn lại và dặn đừng làm rộn họ, đoạn ngài đem theo hai nàng phi đi vòng ra mé sau cây hoa hạnh lắng tai nghe trộm.
Bỗng một tiếng hát nhẹ nhàng êm ái vọng lên giữa không gian yên tịnh, có những tiếng vỗ tay gõ nhịp hoạ theo.
Thì ra đó là tiếng ca của một con cung nữ người nhỏ nhắn xinh xinh.
Bài ca bắt đầu, Quang Tự hoàng đế không để sót một lời nào!
"1.
Chứ nào tại nơi đâu gió xuân ương thứ cái váy tơ mịn màng?
Chứ này cái áo lụa, chứ này cái quần lụa, chứ này cái giải lụa mỏng manh rỡ ràng!
Phập! Phập! Phập phàng!
2.
Chứ nào tại nơi đâu, trong đêm khuya, cái cặp môi son kia luông những thì thầm?
Chứ này sinh cái củ hành, chứ nây sinh cái củ tỏi, chứ nay sinh cái củ hẹ rủ tai nhau rì rầm.
Ký cẩm! Câm! Kỳ câm!
3.
Chứ nào tại nơi đâu có cái vò mỹ tửu Uất Kim Hương lấy mãi tận Lan Lăng?
Chứ để cho ta cất chén mà nhắp, mà bút, mà nốc ngay bên cạnh cái con dao nung đỏ hừng.
Khó! Khó! ấy mới khó mần răng?
4.
Chứ nào tại nơi đâu có cái làn tóc mây chải búi, điểm tô như trên Cung Quảng chị Hằng này?
Chứ kia trên đầu, cái làn tóc mây cao hai thước! Loã xoã lù xù phủ kín cái mặt dày!
Mọi! Mán! Mẹ Mán! Ngây ngây!
5.
Chứ nào tại nơi đâu có cái cặp uyên ương đêm đêm đậu bên cái bức trướng tiêu kim?
Chứ kìa mây bay rồi mây chạy, nhưng mưa ở phương nào mưa vẫn bặt tin?
- Ôi! Cái giường! Giường đất! Còn khem!".
Quang Tự hoàng đế nghe xong bật cười.
Bọn cung nữ nghe tiếng cười, giật mình nhớn nhác thì vừa lúc Quang Tự hoàng đế tay trái cặp tay Trân phi, tay phải khoác vai Cẩn phi, vẻ mặt vui tươi hí hửng đang thong thả bước đến.
Bọn cung nữ vội vàng quỳ xuống đón tiếp.
Quang Tự hoàng đế truyền dụ cho phép bọn này khỏi phải giữ lễ, hãy cố lựa một bài tuyệt hay, tuyệt ngộ ca cho ngài nghe.
Bọn thái giám thấy Hoàng đế có ý muốn nghe hát, bèn chạy vội đi kiếm một chiếc ghế tiêu dao, đặt trên thảm cỏ xanh rờn, thỉnh ngài ngồi.
Trân phi cao hứng cũng truyền dụ mang tới cây đàn "Tam huyền cổ bản" để ca.
Giữa lúc sắp đàn định ca hát, bỗng thấy Lý Liên Anh hấp tấp chạy tới, quỳ xuống trước Quang Tự hoàng đế vội tâu:
- Thỉnh vạn tuế gia mau mau về cung? Lão Phật gia có xem một tờ sớ rất quan trọng, đang cần mời vạn tuế gia về bàn tính.
Quang Tự hoàng đế vốn sợ thái hậu, cho nên vừa nghe có lệnh truyền vội vàng bày giá trở về cung ngay.
Tây thái hậu lúc đó đang cùng với bọn đại thần, vương công xem một tập tấu chương đựng trong một cái hộp bằng giấy vàng tại điện Cần Chính, thấy Quang Tự hoàng đế bước vào bèn đưa tập tấu chương cho nhà vua.
Quang Tự hoàng đế xem thì ra đó là tờ sớ của Quân cơ đại thần Vinh Lộc, nội dung thỉnh Hoàng thái hậu rời gót ngọc vào Di Hoà viên để cử hành điển lễ khánh chúc vạn thọ.
Cứ mỗi lần ngồi bên cạnh Hoàng thái hậu duyệt xong tờ sớ nào, Quang Tự hoàng đế lại trả lại nguyên chỗ của nó, tức là lại đặt vào trong cái hộp bằng giấy vàng đó, mà chẳng nói một lời nào.
Đôn thân vương đứng chầu một bên thấy vậy, không muốn chờ lâu thêm nữa, bèn tâu thỉnh hoàng thượng và Hoàng thái hậu chuẩn y lời tấu của Vinh Lộc là vào quãng tháng mười cử hành đại điển vạn thọ.
Tây thái hậu nghe đoạn lắc đầu, xua tay lia lịa nói:
- Thôi! Thôi! Bọn ta đường đường là một nước Đại Thanh thế mà bị mấy thằng lùn Nhật Bản đánh bại, phải cắt đất bồi thường! Cái mặt ta đây cũng không còn vác lên nổi với thiên hạ, thì còn lòng nào mà đi dạo hoa viên nữa chứ?
Quang Tự hoàng đế biết đây là những chế giễu mai mỉa của Tây thái hậu, chi còn biết gục đầu xuống, miệng ngậm thinh như hến.
Bầu không khí vô cùng nặng nề.
Bọn đại thần bèn họp lại với nhau bàn tính.
Họ thoả thuận với nhau thảo một đạo chỉ dụ đình chỉ việc khánh hạ, đệ trình lên hai cung rồi ban xuống cho thần dân.
Tờ chỉ dụ như sau:
"Tháng mười năm nay, ngày khánh đản lục tuần của ta, khắp nước mừng vui, cùng cảm sâu niềm hoan lạc!
Đã đến ngày hoàng thượng đứa các thần công trong ngoài tới Vạn thọ sơn để làm lễ khánh hạ.
Tất nhiên từ Đại nội đền Di Hoà viên, dọc đường đi qua, thần dân ai cũng muôn trần thiết kinh đàn, chưng bày lễ vật, để báo hiệu công đức.
Ta nhân khoảng Khang Hi, Càn Long, sùng long thịnh điển thành hiên để lại sau, hơn nữa, lại gặp lúc dân khang vật phụ, bốn bể binh an, cho nên không thể chối từ, đành nhận lời mời của Hoàng thượng thụ hà tại Di Hoà viên.
Bất ý tháng sáu vừa qua bọn giặc lùn (Nhật Bản) gây hấn xâm phạm phiên trấn của ta, lại còn phá nát cả binh thuyền!
Bất đắc dĩ, ta phải hưng sư phạt tội, gây việc can qua, điều binh chinh tiễu.
Do đó sinh linh cả đôi nước đều phải chịu cái cảnh máu sông xương núi.
Cứ mỗi lần nghĩ tới ta càng lấy làm xót thương buồn bã.
Trước đây, khi cám cảnh khổ đau của sĩ tốt lúc lâm trận, ta đã đặc cách ban phát ba trăm vạn lạng vàng của kho, mục đích để tư trợ, lân tuất mong hàn gắn cảnh đau lòng.
Bởi thế cho nên dù cái ngày khánh đản đa gần kề thử hỏi còn có lòng nào mà du ngoạn vui chơi và nhận những lời mừng chúc nơi Đài Lai?
Vậy nếu có gọi là đôi chút điển lễ của ngày khánh đản đi chăng nữa, thì cũng chỉ nên cử hành ngay tại trong cung mà thôi.
Tất cả công cuộc mừng chúc tại Di Hoà viên phải tức khắc đình chi.
Khâm thử".
Kính vâng chỉ ý của hoàng thái hậu như trên, lòng Trẫm thực có chỗ không yên! Đã đôi ba lần, Trẫm cố gắng nài xin, nhưng chưa được hoàng thái hậu vui lòng chấp thuận.
Với thịnh đức ấy, Trẫm thực chẳng dám chẳng tuân theo từ ý.
Bởi thế, Trẫm, đặc dụ cho toàn thể thần dân trong cũng như ngoài đều phải nhất tề hiểu rô.
Khâm thử".
Quang Tự hoàng đế thấy vẻ mặt của Tây thái hậu hầm hầm tức giận, và truyền dụ đình chỉ cuộc khánh điển, nhất định không thèm tới Di Hoà viên, thì trong lòng buồn bã không vui!
Ngài bèn tìm lời ngon lẽ ngọt để an ủi thái hậu:
- Hiện nay, Thanh triều ta đã cùng Nhật Bản giảng hoà, quốc gia đã lại thanh bình.
Tuy rằng đã hạ dụ đình chỉ khánh điển, song cũng vẫn xin Lão Phật gia cho phép thần dân dâng lễ thượng thọ.
Đúng ngày hôm đó, kính xin Lão Phật gia vui lòng qua chơi bên Di Hoà viên như cũ!
Đôn thân vương đứng một bên cũng lên tiếng phụ hoạ:
- Thực ta khó có được một vị chủ tử có lòng hiếu hảo đến thế! Chỉ kính mong Lão Phật gia rộng lượng cho phép bọn nô tài, đến đúng ngày vạn thọ của Lão Phật gia, được vào trong Di Hoà viên để dập đầu chúc lạy trước Lão Phật Gia.
Bọn nô tài cũng xin Thái hậu hôm đó rộng lượng khai ân, thưởng cho họ được đi thăm dạo trong vườn một lượt.
Trước những lời lẽ khôn khéo của Đôn Than Vương, lòng giận tức của Thái hậu quả đã có nhiều phần chuyển đổi.
Tự nhiên, bà cảm thấy lòng mình nhẹ hẳn đi.
Bởi thế bà se sẽ gật đầu, tỏ ý đã ưng thuận.
Giữa lúc đó thì một tên tiểu thái giám bước vào, kính thỉnh Lão Phật gia dùng cao Phúc thọ.
Thế là một bọn cung nữ hầu hạ đưa Thái hậu vào thâm cung.
Cao Phúc thọ là cao gì vậy? Chẳng phải cao gì đâu chính là thuốc phiện đó.
Từ cuối đời Đạo Quang, Trung Quốc thua trận, phải mở cửa bể ra thông thương với ngoại quốc.
Người Anh liền kìn kìn chở thuốc phiện vào khắp nước để bán lấy vàng và làm giàu.
Chẳng bao lâu quần chúng Trung Hoa "xực" phải cái "yến" này, thân càng gầy còm, vóc dáng càng ngày càng teo tóp, có kẻ chỉ còn lại có bộ xương trông thảm thê vô cùng.
Trong làng nghiền này, bỗng xuất hiện tại tỉnh Quảng Đông, một tay trứ danh về nấu yến, tên gọi Lục Tác Đồ.
Yến do Đồ nấu thơm ngon lạ thường, không ai bắt chước nổi.
Nhờ đâu mà Đồ có biệt tài ấy? Trước hết, Đồ có một cái giếng nước đã trong, lại có một màu xanh xanh trông đẹp lạ, nhất là khi múc một ít đổ vào trong một cái bát kiểu Giang Tây.
Phải múc nước giếng này đem nấu yến thì yến mới ngon thơm! Thay bằng một loại nước giếng khác, dù trong ngọt đến đâu cũng chẳng có cách gì làm cho yến thơm được như vậy! Đó mới là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai vì Đồ có một phương pháp bí truyền trong kỹ thuật nấu yến.
Bí pháp này, ngay cả đến con trai cũng không được Đồ truyền dạy.
Người duy nhất được biết là bà Quách thị, vợ Đồ.
Hồi đó, các phú gia, đại hộ tỉnh Quảng Đông, tất cả đều phải nhờ bà Quách tới nấu yến giùm cho.
Cứ mỗi lần nấu như vậy là phải trả hai lạng bạc tiền công.
Nhờ đó, bà Quách lượm được khá nhiều tiền bạc.
Cái thứ yến hảo hạng số một Quảng Đông mà viên Tổng đốc Lưỡng Quảng thấy ngon thơm quá, bèn sai bà Quách nấu một nồi bự, xong rồi đưa lên kinh để hiếu kính Thái hậu.
Tây thái hậu dùng xong khen lấy khen lấy khen để, đặt ngay cho cái tước hiệu "Cao Phúc thọ".
Từ đó trở về sau, kẻ nào được làm Tổng đốc Lưỡng Quảng cần phải biết một lệ quy đặc biệt: đó là cứ hằng tháng, bắt buộc phải nấu cho bằng được một nồi yến thơm ngon này để đưa về kinh hiếu kính thái hậu.
Điểm đặc biệt nữa là Thái hậu còn truyền dụ bắt thưởng cho bà Quách, mỗi tháng hai trăm lạng bạc.
Cũng vì vậy, danh tiếng Quách thị nổi lên cao như núi, đến nỗi từ anh quan đại thần đến tên cùng đinh trong ngõ hẻm, ai cũng đều biết cả.
Thế là khắp các tỉnh Trung Quốc, bọn văn quan võ tướng cỡ bự, có duyên nợ với ả phù dung, thế nào cũng phải nhờ cho bằng được Quách thị nấu yến.
Nói đến chuyện Tây thái hậu dùng yến, không ai có thể quên cái dọc tẩu trứ danh của bà.
Nên nhớ rằng dọc tẩu, bàn đèn, tiêm, móc lọ, be, chén, tất cả mọi đồ nghề lỉnh kỉnh, thảy đều từ Quảng Đông đưa về.
Cái dọc tẩu trứ danh của bà thái hậu bằng trúc - tất nhiên phải là thứ trúc đặc biệt, ví dụ như trúc hoá long - to chỉ bằng cổ tay đứa trẻ mới sinh.
Miệng tẩu bằng một ống nhỏ gắn ngay ở đầu.
Dọc tẩu này có một cái giá.
Lúc hút, Thái hậu đặt dọc tẩu lên trên giá, cao thấp, xa gần, tuỳ ý muốn để thế nào cũng được.
Khi một tên tiểu thái giám tiêm thuốc cho Thái hậu, hắn phải quỳ xuống đất, nâng cái dọc tẩu hơ trên ngọn đèn dầu lạc để cho bà chỉ còn mỗi việc là ngậm vào ống hút.
Thực ra dọc tẩu của Tây thái hậu có khá nhiều.
Nhưng trong số đó, duy chỉ có cái tẩu của Hàm Phong hoàng đế thuở nọ để lại cho bà là quý giá nhất.
Lâu năm lâu tháng, cái vỏ trúc của dọc tẩu này đã lên nước, một màu hồng nhuận sáng trơn, mịn, trông chẳng khác gì màu hồng ngọc.
Một hôm, Thái hậu đã trở về cung, giữa lúc đang dùng yến, bỗng thấy Lý Đại cô nương rón rén bước vào, bò sát lại gần rỉ tai bà mấy câu, thì thầm chẳng biết những gì mà mặt bà tự nhiên biến sắc.
Thực thế, thái hậu đã nổi giận, giận đến nỗi cái dọc tẩu đang cầm trong tay bị bà quăng mạnh xuống đất, phát lên một tiếng "rắc", thế là cái dọc tẩu gãy nát, cục thuốc bự cũng vương vãi khắp mặt đất!
Lý Liên Anh lúc đó cũng có mặt vội chạy tới chỗ cái dọc tẩu gãy nát, lượm lên mấy mảnh, đoạn bảo một tên tiểu thái giám đi gọi thị vệ vào đem ngay ra phố giao cho tiệm đồ cổ Phúc Kỳ sửa gấp.
Thái hậu như chưa hả giận còn ném tiếp cái tiêm xuống chiếu, và ngồi nhỏm dậy, quát lớn:
- Bắt điệu ngay con tinh hồ ly đó lại cho tao! Phải chính tao hỏi con khốn nạn đó mới được!
Nguyên Lý cô nương vốn là em gái của Lý Liên Anh.
Chỉ vì thấy anh mình được thái hậu sủng ái, nên nàng ta mè nheo anh phải cho mình vào cung chơi cho bằng được.
Anh không những dám đưa em gái mình vào cung cấm, mà còn cả gan đưa thẳng vào gặp Thái hậu nữa là khác.
Bình sinh, Tây thái hậu rất thích bọn con gái.
Phàm bọn cung quyến thường hầu hạ, trò chuyện vui cười bên cạnh thái hậu, quá nửa đều là mấy cô cách trong Tôn Thất (họ nhà vua) nếu không thì cũng phải là những cô nương trẻ đẹp được chọn lựa trong số gia quyến ba Kỳ như Chính Hoàng, Nhương Hoàng, Chính Bạch.
Ngoài các cô con gái trẻ măng này còn có một số ít mụ sồn sồn, nhưng lại lanh lẹ hết cỡ, giỏi nói tài cười, ít người sánh kịp, hoặc còn có cái tài thư, hoạ, cầm, kỳ, nhởn nhơ suốt ngày ở bên cạnh thái hậu để chờ lệnh sai khiến.
Trường hợp hiếm hoi một số bà mệnh phụ có chồng thì cứ vài ba tháng, thái hậu lại cho về thăm nhà một lần.
Hôm đó, Tây thái hậu thấy em gái Lý Liên Anh, người đã đẹp ăn nói lại lanh lẹ, duyên dáng, thế là bà giữ lại ngay trong cung, coi như một cung quyến…
Hoàng hậu của Quang Tự hoàng đế nguyên là cháu ruột Tây thái hậu, điều rắc rối là hoàng đế lại chán ghét hoàng hậu.
Do đó, làm gì ngài cũng thường giấu, thường tránh bọn tai mắt của hoàng hậu, trái lại chỉ nói cho hai phi Cẩn và Trân mà thôi.
Đã thế ngài lại hay tới cung của Trân phi để ăn ngủ tại đây.
Chính ở chỗ kẻ ấm người lạnh này, hoàng hậu không khỏi ghen tức.
Nàng hay chạy sang mách với Thái hậu.
Thế là thái hậu bèn nghĩ ngay cho nàng một chủ kiến.
Tây thái hậu thường sai em gái Lý Liên Anh lảng vảng qua chơi bên cung hoàng đế để dò la tin tức, về báo cho bà nghe.
Bọn cung nhân trong cung thái hậu đều gọi ả là Lý Đại.
Được mật lệnh này, Lý Đại ngày ngày hầu hạ bên cạnh hoàng đế, đổi luôn cái tên đi, khiến Quang Tự hoàng đế cũng như Cẩn phi và Trân phi, chẳng ai biết ả Lý là tai mắt của thái hậu.
Một hôm, Quang Tự hoàng đế đem cả hai Cẩn và Trân phi sang Tây Uyển du ngoạn.
Được tin này, Lý đại cô nương lén cho người về báo cáo với thái hậu và hoàng hậu.
Hoàng hậu lúc đó máu ghen nổi lên ngụt trời, vội chạy tới khóc lóc với thái hậu:
- Giữa lúc quốc gia nguy bách như thế này, vậy mà hoàng thượng vẫn một mực mê luyến nữ sắc; chẳng hỏi han chi tới triều chính.
Ví thử từ đây ngài sinh ra hồn ám đắm say.
há chẳng phải là cả một giang sơn gấm vóc, cả một triều đại hàng trăm năm xây dựng đã lọt vào tay một tên hôn quân chăng? Muôn ngàn lạy xin Lão Phật gia đứng làm chủ cho cứu vớt hoàng thượng ra khỏi cơn ác mộng này!
Thấy hoàng hậu tới cung khóc lóc, Tây thái hậu bèn bảo:
- Gia pháp của nhà Đại Thanh ta nay để đâu?
Chỉ một câu nói này thôi cũng đủ làm cho hoàng hậu tỉnh ngộ.
Thế là hoàng hậu vội vã dập đầu trước Thái hậu và trở về cung.
Một mặt, Tây thái hậu mượn tiếng xem tấu chương, cho triệu hồi hoàng đế vào cung nội cấp ký.
Thực ra, ngày thường thái hậu xem tấu chương có bao giờ gọi hoàng đế tới cùng xem đâu?
Bởi thế, nghe nói Thái hậu triệu mình tới để xem tấu chương, Quang Tự hoàng đế đã hiểu ngay có gì không ổn rồi! Khi gặp Thái hậu, quả nhiên thấy bà đầy mặt giận tức.
Và trong lúc nói chuyện, ngài thấy thường nói bóng nói gió, có ý khuyên ngải không nên đi du ngoạn hoa viên, tự tìm khoái lạc cho riêng mình.
Hoàng đế cắn môi lặng thinh, định bụng im cho qua chuyện.
Nhưng ngài biết đâu rằng cũng lúc này, hai phi Cẩn và Trân của ngài đã bị hoàng hậu triệu tới cung Khôn Ninh và đưa gia pháp ra, đánh cho hai nàng một trận đòn nên thân, buộc hai nàng từ đây cấm không được mê hoặc hoàng thượng.
Trong số hai phi tử, Trân phi quả là một trang giai nhân sắc nước hương trời.
Hoàng hậu nhìn thấy nàng, quả thật không chịu nổi lòng riêng cào xé.
Bởi thế bà dặn lũ cung nhân đánh Trân phi đến chết đi sống lại.
Thật đáng thương cho Trân phi, liễu yếu đào tơ làm sao mà chịu được đòn ghen? Khi hoàng đế nghe tin chạy tới thì Trân phi chỉ còn lại cái xác gần như không hồn, khuôn mặt xinh tươi ngày nọ nay đã mất hết sắc xuân.
Ngực chi còn thoi thóp, đôi mắt lờ đờ nhìn hoàng đế, đôi dòng lệ trào ra trôi trên má, và vài tiếng nức nở nghẹn ngào trong cổ họng.
Quang Tự hoàng đế thấy tình cảnh Trân phi như vậy, bất giác nổi trận lôi đình, nghiến đôi hàm răng ken két nói:
- Con mẹ già khốn nạn độc ác thiệt! Một ngày nào đó thế nào mi cũng phải chết vì tay ta!
Quang Tự hoàng đế vừa vuốt ve vừa tìm lời an ủi Trân phi và cho gọi ngự y tới chữa chạy rồi quay mình ra đi.
Quang Tự hoàng đế đi sang thư phòng, gọi viên tổng quản tới, và cho đi mời ông sư phó vào ngay cung nội cho ngài hỏi ý…
Được lệnh triệu, ông Đồng Hoà theo gót tên tổng quản vội vã vào cung.
Khi tới ngự thư phòng, Hoà thánh lễ và được phép ngồi xuống ghế.
Quang Tự hoàng đế, mặt hầm hầm, bực tức nói:
- Trẫm làm vua, mang tiếng là chí tôn trong thiên hạ, thế mà chỉ có mỗi một phi tử cũng không bảo vệ nổi! Thật là đáng xấu hổ!
Nói đoạn, nhà vua bèn đem hết chuyện hai phi Cẩn, Trân bị hoàng hậu đánh đập tàn nhẫn như thế nào kể lại cho Hoà nghe.
Hoà rõ chuyện xong, bèn thừa dịp tâu vào:
- Trước đây, ngư thần đã có lần tâu: quyền bính của bệ hạ phần nào rơi vào tay người, cần phải tìm cách thâu hổi, sau đó mới độc đoán, độc hành, tự giải quyết hết mọi việc, nắm trọn quyền binh vào tay mới được.
Như thế, đừng nói đến thân vương, hoàng hậu, mà ngay cả hoàng thái hậu cũng nhất định nể sợ bệ hạ một phép.
Quang Tự hoàng đế gật đầu nói:
- Ý của sư phó quả đúng là một phương pháp trị từ gốc.
Cái ý thâu hồi quyền bính, trẫm đã nghĩ tới không biết bao lần.
Song trẫm vẫn ngại có hoàng thái hậu và cả một bọn thân vương bên cạnh.
Theo sư phó nay trẫm nên làm thế nào để cho mọi việc được vẹn toàn.
Ông Đồng Hoà tỏ vẻ suy nghĩ một lát rồi tâu:
- Kế hoạch đã sẵn, nhưng không biết bệ hạ có dám thực hiện hay không thôi!
Quang Tự hoàng đế nói:
- Tất cả cái gì có lợi cho trẫm là có thể thực hiện được hết Có điều nếu trẫm hành động như vậy, không biết thái hậu và bọn thân vương nghĩ gì về trẫm?
Ông Đồng Hoà nói:
- Nếu lòng bệ hạ đã quyết như vậy thì bệ hạ nên nhân dịp Thái hậu suốt ngày vui chơi tại Di Hoà viên mà quyết đoán tài phán tất cả những tấu chương của bọn quan lại ở ngoài kinh đô, rồi nhất nhất phê đáp do ý bệ hạ.
Vạn nhất có chuyện khẩn yếu quan trọng lắm, lúc đó mới thương lượng với thái hậu mà thôi.
Đang khi vui chơi, không muốn bận tâm vào chuyện khác, hơn nữa, lại thấy bệ hạ chu tất hết mọi việc, thái hậu ắt vui lòng, yên tâm tận hưởng nhàn lạc, quyết không có điều chi nghi ngại.
Thái hậu vốn biết bệ hạ là người trung hậu chân thành, ắt tưởng rằng bệ hạ không bao giờ có ý đồ chuyên chính.
Dần về sau, dù có viện khẩn cấp quan trọng đi nữa, bệ hạ cũng khỏi cần hỏi ý kiến thái hậu.
Lúc đó, quyền chính đương nhiên là đã trở về với bệ hạ và bệ hạ cứ việc thẳng tay tước bỏ