Ông lão đầu râu tóc bạc thấy Đậu Nhĩ Đôn giơ thắng cánh giáng quyền vào ngực mình, song ông không thèm đỡ mà cũng chẳng thèm tránh.
Đậu Nhĩ Đôn càng hăng tiết, đấm luôn một hơi ba đấm.
Điều kỳ quái đối với hắn là ông lão vẫn ngồi yên như chẳng có chút gì tỏ ra đau đớn hoặc sợ hãi.
Bọn huynh đệ của Đôn đứng đằng sau thấy chuyện lạ, mặt ngây ra tỏ ý hoảng sợ hết sức, Đôn mắc cỡ quá vội đem bọn huynh đệ rút lui, mặt tên nào tên nấy teo lại như cái bị rách.
Ông lão sau đó cũng thu lượm đồ đạc rồi quay về khách điếm an nghỉ.
Nửa đêm hôm đó, giữa lúc ông lão đang ngủ say, có một bóng người nhảy vù từ bên ngoài qua cửa sổ vào phòng.
Khi vừa đặt chân vững phía trong, cái bóng đen tay cầm chắc con dao nhọn hoắt, nhè đầu ông lão chém mạnh xuống một nhát, tiếng dội lên nghe chát chúa.
Có ai ngờ được cái bóng đen chém như vậy mà ông lão kia vẫn thản nhiên nằm ngủ như không có chuyện gì xảy ra, tiếng ngáy nghe như sấm.
Tên thích khách bị một phen hoảng hồn, đứng thộn người ra.
Mãi một lúc sau ông lão mói dần dần tỉnh lại, mở mắt thấy Đậu Nhĩ Đôn còn đứng ngây người ở trước giường bèn nói với một giọng bình thản:
- Thằng bé nào ở đâu tới phá giấc ngủ của ông nội nó đó?
Đậu Nhĩ Đôn đến lúc này đã quá sợ, hai chân mềm ra như bún, vội quỳ phịch xuống đất miệng khấn cầu ông lão nhận hắn làm đồ đệ.
Ông lão lúc đầu ngơ đi, chẳng thèm trả lời.
Đôn tái tam khẩn cầu, đập đầu lia lịa dưới đất, lúc đó ông lão mới khứng chịu.
Thế rồi hôm sau ông lão mang hắn đi, và từ đó, người ta còn trông thấy Đậu Nhĩ Đôn ở đất Tế Nam nữa.
Năm năm sau, lại thấy Đậu Nhĩ Đôn trở về với một cô vợ tuyệt đẹp.
Người Tế Nam ai cũng nhận ra đó là cháu gái của ông lão đầu râu tóc bạc ngày nọ.
Ông lão này họ Thạch, vốn là bộ tướng của vị tướng quân nhà Minh Trương Thương Thuỷ.
Người con gái đó là cháu ngoại của ông.
Sau khi Trương tướng quân thua chạy, ông bèn đem hai người con gái, giả danh mãi võ để triệu tập anh hùng hào kiệt bốn phương mong khôi phục lại Minh triều.
Thế rồi khi gặp Đậu Nhĩ Đôn xin nhập môn làm đồ đệ, ông bèn mang cà một kho võ nghệ truyền thụ cho Đôn.
Ông còn đem cả cô cháu gái gả cho Đôn nữa, và khuyên Đôn từ nay về sau nên ăn ở sao cho trở thành người tốt.
Ông cũng không quên giao cho Đôn nhiệm vụ chiêu tập bọn huynh đệ ở quê nhà để chờ cơ hội mà phục thù cho Minh triều.
Khang Hi hoàng đế Nam tuần chuyến này có qua địa phận Tế Nam.
Đôn cho rằng cơ hội đã tới bèn đưa vợ con vào ẩn tạm trong rừng sâu rồi ngay đêm hôm đó, dùng khinh công dạ hành nhảy vào hành cung định hành thích vua Thanh.
Trong khi rình mò, Đôn thấy phía sau viện có con ngựa Xích Ký tốt quá.
Đôn vốn tính thích ngựa coi ngựa tốt như mạng mình nên khi thấy đã bèn tính đánh trộm trước đã rồi sau sẽ hay.
Con ngựa thấy có người tới trộm giật mình hí vang trời và cấp đá tứ tung.
Bọn thị về vội vã chạy ra xem thì chỉ kịp thấy Đôn đã nhảy lên lưng phóng nước đại như bay, thoắt một cái đã xa đến mấy dặm rồi.
Đôn đem ngựa vào giấu mãi tận trong rừng sâu xong mới ra ngoài thành lần nữa, nhưng Khang Hi hoàng đế đã đăng trình về phía Tô Châu rồi.
Thuyền của nhà vua qua Đan Dương, Thường Châu, Vô Tích, đều không đậu bến nào.
Đúng ngày hai mươi sáu tháng mười thì Khang Hi hoàng đế tới Hữ Dã quan tỉnh Tô Châu.
Quan tuần phủ Giang Tô là Thang Bân đem tất cả nha lại ra tiếp giá.
Khang Hi hoàng đế cưỡi ngựa đi qua cửa thành, dân chúng trăm họ quỳ hai bên đường phố nghênh đón.
Nha vua truyền lệnh bảo dân chúng đứng lên.
Khi thấy ông già bà cả, trẻ nít con côi, nhà vua nhảy xuống ngựa, lại gần hỏi han.
Ngài đi bộ tới cầu tiếp giá, trước chùa Thuỵ Quang, ngồi nghỉ chốc lát, rồi có quan tuần phú dẫn lộ vào xem một xưởng dệt.
Hồi đó có một vị tên gọi Tổng Mục Trọng đã từng làm phủ đài tỉnh Giang Tô, nay đã cáo lão về vườn hiện ẩn cư tai thành Tô Châu.
Nhà vua bỗng nhớ tới ông, vội cho người đi kiếm ông tới hành cung để trò chuyện giai khuây.
Qua ngày hôm sau, nhà vua sai bọn nội giám đưa biếu họ Tống bốn con dê sống, tám con gà trống thiến, tám cái đuôi hương lộc, hai mươi bốn bao thịt nai khô và bốn bao cá khô.
Ngài lại còn truyền chỉ bảo họ Tống cách nấu đậu hũ để cho ông lúc về già lấy kế sinh nhai.
Qua ngày thứ ba, quan tuần phủ tới hành cung thỉnh an nhưng từ phía trong truyền ra bảo thánh cung không được khoẻ , nhất thiết quan nha miễn vào bái kiến.
Thực ra đó chỉ là lời thoái thác, chứ hoàng đế có đau yếu gì đâu.
Ngài đã từ sáng sớm đi cùng tên thị vệ thân tín lẻn xuống một chiếc thuyền con vào trong các thôn xóm hoặc thị trấn du ngoạn rồi.
Có một hôm, thuyền của nhà vua cập bến cầu Thất Lý, trong vòng thành huyện Hoa Đình.
Khang Hi hoàng đế bước lên bờ thấy một quán rượu cất ngay bên cạnh cầu, tên tiểu nhị đang đứng bên quầy hàng.
Ngài bèn thả bộ vào quán.
Tiểu nhị chạy lại hỏi khách.
Ngài bảo lấy ba xị rượu rồi ngồi một mình độc ẩm.
Một lúc sau, thấy khách trong quán đã lui hết, ngài bèn gọi tiểu nhị lại ngồi cạnh hầu chuyện.
Ngài hỏi tên tiểu nhị:
- Người làm ăn vất vả cả ngày như vậy, tiền công được bao nhiêu?
Tên tiểu nhị đáp:
- Công xá của bọn tôi ít ỏi lắm.
Bọn tôi chỉ nhờ vào chút tiền thưởng khi bán rượu mới đủ sống.
Thực ra số tiền thưởng này góp nhóp lại kể cũng khá.
Nhưng từ khi Kim đại lão gia đáo nhiệm tới nay thì ngài quyên thu hết, khiến bọn tôi chẳng còn được một cắc tiền thưởng nào nữa.
Hiện nay bọn tôi chỉ còn nhờ vào số tiền công mạt rệp này nên không biết lấy gì độ nhật đây.
Nói xong, tiểu nhị thở dài, tỏ vẻ chán nản.
Hoàng đế cúi đầu để suy nghĩ điều gì đó.
Lát sau bỗng ngài hỏi tiểu nhị.
- Trong thành này, có vị quan nào lớn hơn viên quan huyện không?
Tiểu nhị đáp:
- Mấy hôm nay nghe nói có đức vạn tuế ngài tới, nên tỉnh phái một vị đề đốc đại nhân đem quân đến đây để bảo vệ.
Khang Hi hoàng đế biết vậy, liền bảo tiểu nhị lấy bút đem lại Ngài viết mấy chử xong đóng cái dấu nhỏ rồi bỏ vào bao thơ dán kín.
Ngài gọi tiểu nhị bảo:
- Người đem bao thơ này tới nha môn của quan đề đốc.
Ta với quan đề đốc vốn chỗ bạn thân.
Một khi bao thơ này đến tay ngài, ta tin chắc bọn ngươi khỏi phải đóng tiền quyên nữa.
Tiểu nhị nghe bảo, nhưng đời nào dám làm theo.
Về sau viên chưởng quỹ thay hắn liều mạng ra đi.
Đặt chấn tới cổng nha môn của quan đề đốc, viên chưởng quỹ thấy bọn sai nha tàn ác dữ tợn mà phát hoảng.
Y còn hoảng sợ hơn khi chúng hỏi y tới có việc gì.
Viên chưởng quỹ lật đật thò tay vào trong bọc, rút bao thơ ra, tay run run đưa cho chúng.
Bọn nha lại thấy chỉ là một bao thơ thường nên nhận xong rồi ném đại vào trong phòng.
Viên chưởng quỹ thấy bọn chúng xem thường vội bảo người khách đưa thơ cần hồi âm ngay.
Bọn sai nha vẫn bất chấp, chẳng thèm để ý.
Tên Chưởng quỹ vật nài, ba bốn lần nữa thì vừa may một vị nhị gia từ bên trong bước ra.
Bọn sai nha bèn đưa bao thơ cho vị này để đưa vào cho quan đề đốc.
Bao thơ đưa vào trong, chỉ một lát sau bỗng mọi người nghe ba tiếng pháo nổ vang trời.
Tức thì cửa chánh môn mở toang.
Đề đốc đại nhân đích thân le te chạy ra tiếp đón viên chưởng quỹ vào trong một cách vô cùng trịnh trọng.
Bọn sai dịch lúc nãy đứng hai bên mặt mày ngơ ngác, miệng há hốc chẳng hiểu sự thể ra sao.
Quan đề đốc vội vàng đốt đèn nhang sáng rực cả công đường.
Ông đặt bao thơ lên trên hương án, rồi đứng ngay ngắn phía trước làm lễ Tam quy cứu khấu.
Lễ xong, ông quay lại chắp tay trịnh trọng lạy viên chưởng quỹ ba lạy.
Viên chưởng quỹ chẳng hiểu ra sao, vội quỳ xuống đáp lễ mãi không thôi.
Quan đề đốc, sau đó cho người đi gọi ngay viên tri huyện Hoa Đình.
Viên tri huyện chẳng biết chuyện gì vội vàng đội nón mặc áo, leo lên kiệu, tức tốc ra đi.
Quan đề đốc vừa thấy mặt Kim tri huyện bỗng sa sầm nét mặt, hét một tiếng "Quỳ xuống nghe chỉ".
Kim tri huyện hoảng hồn bạt vía, vội nằm bò xuống đất không dám động cựa.
Quan đề đốc bước tới vài bước, cầm bao thơ mở ra tuyên đọc:
"Tri huyện Hoa Đình Kim Vũ, hối lộ tham nhũng khiến dân hết đường sinh sống, nên Trẫm giao cho quan đề đốc bối xích lại ngay và đợi chỉ.
Khâm thử".
Kim tri huyện chưa nghe hết, mặt hắn đã xám ngoét như cục đất thó.
Bọn sai nha được lệnh, trước hết lột mũ, rồi sau mới còng tay và đẩy tắp vào nhà lao.
Hạ ngục viên tri huyện xong quan đề đốc bắt đem kiệu tới, leo lên ngồi trên, cho cả viên chưởng quỹ cùng ngồi, chạy như bay tới cầu Thất Lý.
Nhưng khi quan đề đốc bước vào tửu điếm thì hoàng đế đã ra đi từ lâu.
Quan đề đốc vội truyền lệnh cho các pháo thuyền khắp nơi đều phải đuổi gấp để bảo vệ nhà vua.
Ngự thuyền chỉ là một chiếc thuyền nhỏ, mà pháo thuyền lại thuộc loại lớn kềnh càng đồ sộ cho nên quan đề đốc tìm kiếm mất mấy ngày phí công mà vẫn chẳng thấy, trái lại, chỉ làm cho địa phương này náo động lên một phen mà thôi.
Khi Khang Hi hoàng đế đến Tô Châu, bọn quan lại ở đây mới biết rằng ngài vừa mới du hành ra ngoài, ông nào ông nấy lũn cũn chạy tới hành cung thỉnh an.
Ở lại ít hôm, hoàng đế lúc đó mới trở gót về kinh, khi đi qua Giang Minh, ngài bỗng sực nhớ tới quan chức Tào Dần, bèn truyền dụ cho Dần tới tiếp giá.
Dần đưa ngài về Nha môn Chức tạo.
Dần vốn là một quan viên sai khiến của nhà vua, điều lý các việc.
Hoàng đế đãi ngộ Dần như một vị thân thần.
Mẹ của Dần là Tôn thị, lúc trẻ cũng có vào cung.
Sau khi tiếp giá, Tào Dần và hoàng đế trò chuyện vui đùa y như người trong nhà.
Hoàng đế lại còn triệu bà Tôn thị ra mắt ngài, rồi cả đến bọn cháu chắt thảy đều được ban thưởng rất nhiều tài vật.
Ngài lại viết ba chữ "Huyện thuỵ đường" để thưởng cho Dần.
Dần có cái vườn hoa rất lớn.
Hoàng đế ở lại đây vài hôm nữa rồi xa giá mới thẳng về Bắc Kinh.
Trong khi vua cha Khang Hi Nam tuần thì thái tử Dân Nhung ở nhà Giám quốc được yên ổn, không có chuyện gì xảy ra.
Nhưng vốn là một "con mọt sách", suốt ngày chúi mũi vào đống sách, cho nên việc triều chính thẩy đều phó mặc bọn đại thần, thân vương bối lặc lo liệu, duy chỉ có hoàng tử Dân Trinh, vì thấy vua cha tuần du khỏi kinh thành, càng ngày càng tỏ ra phóng túng bạt mạng, chẳng đếm xia gì tới luật pháp.
Bỗng một hôm, thái tử Dân Nhung ra Nam Uyển đi săn, ngẫu nhiên thấy một đội thị vệ cưỡi ngựa từ phía Nam chạy tới, hộ tống một chiếc xe, phía trước có rất nhiều nghi trượng lại có cả bọn sư Lạt ma cầm pháp khí đi trước dẫn đường.
Thái tử tưởng lầm là Khang Hi hoàng đế đã trở về, vội chạy lại đón giá.
Chẳng ngờ người ngồi trên xe chỉ là tứ hoàng tử Dân Trinh.
Nhung lấy làm bực lắm, song lại nghĩ tới tình nghĩa anh em nên đành tránh ra bên cho đoàn xe ngựa của Trinh đi qua.
Đợi đến Khanh Hi hoàng đế về triều, thái tử Nhung diện kiến vua cha mới đem việc tứ hoàng tử mạo dung nghi trượng hoàng đế tâu lên.
Hoàng đế nghe xong tức giận lắm, liền phái người tới thu hết đồ nghi tượng, lại còn gọi Dân Trinh vào cung, chửi mắng cho một trận nên thân.
Bị một mẻ chua cay tứ hoàng tử Dân Trinh hậm hực oán hận lắm, về nhà thu xếp hành lý, đem thêm mấy tay võ sư, ra khỏi kinh thành, chạy thẳng về hướng Tây Nam.
Trong lúc đi đường Trinh bảo với bộ hạ là cả bọn quyết đi đất chạy bộ chứ nhất định không dùng xe dùng ngựa, như thế một là để tập luyện gân cốt, hai là để tìm kiếm anh hùng hảo hán ở dọc đường.
Trinh cùng bộ hạ đi đến chân núi Trung Sơn vào trọ trong lữ điếm thì lúc đó trời cũng vừa tối.
Bọn võ sư cùng bọn thị vệ thấy trăng trong gió mát nên ngồi cả trước thềm để vừa ngắm trăng vừa nói chuyện vãn với nhau, Trinh một mình ở trong phòng buôn quá, bèn lẻn ra ngoài tản bộ.
Về phía đông lữ điếm có một khu rừng tùng, trăng chiếu ánh lung linh.
Dưới mặt đất, bóng trăng không chiếu tới được nên hình ảnh mập mờ.
Trinh khoanh tay, từ từ bước tới cạnh khu rừng.
Bỗng tai Trinh nghe có tiếng gió lộng vù vù.
Trinh gấp rút đi tới và vòng một vòng ra trước thì thấy trên một khoảng đất trống về mé đông khu rừng có một nhà sư tay cầm thiền trượng đang múa tít loang loáng dưới trăng.
Trinh xem nhà sư múa một lát cảm thấy chân tay ngứa ngáy nên liền tuốt yêu đao, xông vào vòng chiến.
Nhà sư thấy có người đánh trả mình bèn múa cây thiền trượng vèo vèo lúc ẩn lúc hiện như một con rắn vây bọc lấy đối thủ.
Trinh đem hết tài nghệ luyện tập lâu nay ra ứng phó, nhưng đánh đã một lúc lâu mà vẫn không tìm được cách nào để hạ thủ.
Rồi thủ pháp của Trinh mỗi lúc thêm bấn loạn, tay chân Trinh đã có phần tên mỏi rã rời, trong lúc đó cây thiền trượng của nhà sư càng lúc càng nhanh, càng lúc càng bám sát lấy Trinh.
Trinh thấy thế giật mình biết nhà sư này chẳng phải tay vừa.
Trong lúc Trinh còn đang suy nghĩ để so đo đánh giá thì cây thiền trượng đã như một trái núi Thái Sơn từ trên cao vụt tới chỉ cần nghe tiếng gió cũng đã nghe ghê hồn rồi.
Trinh hoảng quá, vội nhảy lùi ra sau mấy bước, rồi bỗng quỳ xuống đất miệng kêu: "Xin sư phụ tha mạng".
Nhà sư thu cây thiền trượng, hồ hố cười lớn đoạn quay mình tới gốc cây tùng lượm gói đồ lên, co chân phóng đi.
Trinh đời nào chịu bỏ, vội đuổi theo.
Khi tới gần, Trinh vội ôm cánh tay nhà sư, khẩn khoản xin nhà sư cho làm đệ tử.
Nhà sư nghe lời Trinh có vẻ thực thà, liền nhìn Trinh từ đầu tới cuối rồi gật đầu ưng chịu.
Trinh như mở cờ trong bụng, vội quay về khách điếm kể lại cho bọn tuỳ tùng nghe mọi việc vừa xảy ra rồi bảo chúng quay trở về kinh chờ đợi.
Còn Trinh thì theo chân nhà sư ra đi.
Hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ, trèo núi vượt đèo, trải qua không biết bao nhiêu đường đất.
Bình sinh Trinh đâu phải nếm cảnh gian lao khố cực như thế này nhưng vì muốn học tập bản lãnh, cho nên đành phải nhẫn nại chịu đựng.
Hai người đi như vậy đã nhiều ngày bỗng một hôm tới một ngọn núi cao.
Thầy trò cùng trèo lên.
Khi tới được đỉnh núi thì Trinh đã mệt nhoài, mồ hôi ra như tắm.
Nhà sư co chân bước những bước vừa cao vừa dài tới một chóp núi.
Một toà miếu lớn hiện ra, mé trên cửa treo tấm biển viết ba chữ lớn: "THIẾU LÂM TỰ".
Mãi lúc đó Trinh mới rõ sự thể, và từ đó về sau Trinh theo sư phụ, cùng bọn sư huynh sư đệ ngày ngày luyện tập.
Trinh sống với bọn đồng môn nơi đây mười phần hoà thuận.
Có kẻ hỏi Trinh lai lịch quê quán thì Trinh chỉ bảo mình quê ở Bảo Định Phú còn câu chuyện hoàng tử, hoàng cung Trinh tuyệt đối giữ kín không cho ai hay.
Trinh có tật xấu là ăn quá nhiều khiến bọn đồng môn ai cũng cười Trinh và đem sánh với vị sư phó trước đây.
Vị sư phó của họ tên gọi Chính Giác.
Lúc mới tới chùa, Chính Giác chỉ là một nhà sư nấu bếp.
Chính Giác ăn quá nhiều.
Mỗi lần cùng ăn cơm với bọn đồng môn, Chính Giác ăn không được no, chỉ lưng lửng phần nào, miệng còn chép chép muốn ăn thêm.
Bởi vậy, Chính Giác tính chuyện trộm đồ ăn thừa còn lại trong bếp đem giấu trong một khẩu chuông cổ bỏ đã lâu đời đằng sau viện, để lúc vắng người ra đó ăn thêm.
Khẩu chuông cổ này bằng đầu người, nặng có tới ngàn cân, vứt ở trong xó viện đã từ lâu lắm, không ai có thể xê dịch nó nổi.
Chính Giác trời sinh có một sức mạnh như thần.
Ông nâng lên đặt xuống khẩu chuông như cầm bát cơm vậy.
Về sau, nhà sư trông coi việc bếp nước thấy hôm nào cũng mất đồ ăn, bèn len lén điều tra.
Nhà sư này theo dõi Chính Giác tới sau viện thì bắt được quả tang Chính Giác đang nhấc bổng khẩu chuông lên để đặt gói đồ ăn trộm ở nhà bếp vào trong.
Thế là chuyện vỡ lớ.
Mọi người ai nấy đều ngạc nhiên.
Vị hoà thượng trụ trì cho gọi Chính Giác tới, khuyên không nên lấy trộm cơm nữa, và hứa cho ăn thả cửa, thật no đủ thì thôi.
Hoà thượng trụ trì lại hỏi Chính Giác có một thần lực như vậy, tại sao không đi đầu quân phò vua giúp nước thì Chính Giác đáp:
- Đệ tử nghe nói trên núi Nga Mi có một vị Thái sư phó tinh thông quyền thuật.
Môn bách bác thần quyền của ngài được coi vô địch.
Nhưng ngài chỉ chuyên truyền thụ cho đệ tử Phật môn mà thôi.
Đệ tử không có vị hoà thượng trụ trì tên tuổi nào giới thiệu cho nên ngài chẳng chịu thu nhận.
Nay sư phó cấp cho đệ tử một phong thư giới thiệu giúp đệ tử tới núi Nga Mi học thành tài trở về, đệ tử không bao giờ dám quên đại đức của sư phó.
Vị hoà thượng trụ trì thấy Chính Giác thành tâm cầu học, nên viết ngay bức thư giới thiệu.
Chính Giác cầm thơ đi thẳng tới núi Nga Mi, mãi tám năm sau mới về thì vị trụ trì đã mất.
Thế là toàn thể tăng ni trong chùa tôn Chính Giác lên làm trụ trì.
Nhà sư Chính Giác, quyền pháp quả thực cao cường, thiên hạ đều biết tiếng.
Số môn đệ tới Chùa xin lãnh giáo, tăng có, tục có lên tới hơn một ngàn người, người nào người nấy đều được Chinh Giác hoà thượng tận tâm chỉ bảo.
Hoàng tử Dân Trinh hồi đó cũng theo bọn môn đệ cố công luyện tập.
Tạo luyện hơn một năm ròng rã, Trinh đã lãnh hội được môn bách bát thần quyền.
Trinh bèn xin sư phó trở về nhà.
Sư phó Chính Giác gật đầu, và sau đó cho gọi 108 nhà sư môn đệ vây Trinh vào giữa để hai bên tỷ đấu quyền thuật.
Đứng trước 108 địch thủ Trinh không hề có chút sợ hãi.
Trinh phải lần lượt đấu hết người này tới kẻ kia.
Bọn địch thủ đấu càng về sau càng hung dữ khiến Trinh phải đem hết công lực và tài nghệ chống đỡ mới thoát hiểm.
Cuối cùng Trinh đã đánh lui được đủ 108 người sát hạch mình.
Theo quy lệ của chùa Thiếu Lâm thì hễ ai nhập môn vào chùa đều phải có lệ nghinh tống (đón rước và tiễn đưa): khi vào chùa, được học nghề, phải bốc nổi cái chuông đã đặt ở ngay trước cổng rồi cố sức mang được vào bên trong thì lúc đó mới được thu lưu.
Kẻ nào không làm nổi thì nhà chùa nhất định không nhận.
Rồi đến khi học đã thành tài muốn ra khỏi chùa để hạ sơn, bắt buộc phải qua ba từng cổng.
Cống thứ nhứt có tám vị hoà thượng tay cầm dao chực sẵn.
Đánh thoát được cổng thứ nhất mới tới cổng thứ hai.
Cổng này có tám vị hoà thượng tay cầm gậy chực sẵn.
Đánh thoát được cổng thứ hai rồi lại còn cái cổng chót, là cống thứ ba.
Cổng thứ ba có tám vị hoà thượng đứng chờ, không có binh khí, nhưng dùng quyền cước tấn công, tám vị hoà thượng này đều là những tay võ có bản lĩnh cao cường, quyền pháp tinh thông, thoát khỏi được không phải là chuyện dễ.
Người muốn ra phải theo ngưỡng cửa mà ra.
Bởi vậy, Dân Trinh đã muốn hạ san, ắt không thể nào không theo qui củ của nhà chùa.
Trinh bèn tung mình qua từng cửa thứ nhất, may sao tránh được đao của bọn hoà thượng.
Qua từng cửa thứ hai Trinh đang tìm cách thoát đi, thì vừa lúc ngoài sơn môn chạy tới một đám đông thị vệ và nội giám.
Bọn người này chính là bọn thủ hạ của Trinh trở lại tìm chủ.
Đến lúc đó, cả bọn tăng tiểu trong chùa mới biết Trinh là một vị hoàng tử.
Nhà sư trụ trì bèn quát bảo mọi người lui ra rồi đích thân đưa Trinh ra khỏi chùa.
Theo ý của Dân Trinh thì nhất định phải đánh phá cho kỳ được ba từng cửa mới ra.
Nhưng hoà thượng Chính Giác không cho, còn nói:
- Đường đường một vị hoàng tử, con không nên quá cố chấp và liều lĩnh.
Khi tạm biệt, hoà thượng Chính Giác tặng Trinh một cây thiền trượng bằng sắt, bảo để dùng làm kỷ vật về sau.
Lại nói:
- Bản lãnh của hoàng tử đã có thể tung hoành thiên hạ.
Nhưng nếu gặp nữ nhân, nên đặc biệt cẩn thận đề phòng.
Dân Trinh nhất nhất lĩnh hội, rồi cáo biệt xuống núi.
Khi về tới vùng Sơn Tây ngụ tạm trong khách điếm, bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm bên ngoài.
Trinh cho người chạy ra hỏi xem, mới biết một tên đại hán đang muốn đánh chết một người nào đó, trong khi khách qua đường xúm lại cố khuyên hắn bớt giận.
Tên đại hán ấy chẳng những không nghe ai mà còn quát lớn:
- Ta vốn là võ sư của đương kim điện hạ.
Nếu ta có gây ra án mạng thì đã có điện hạ của ta lo liệu chứ ta đâu có sợ gì.
Lời nói hách dịch đó quả đã khiến Dân Trinh cả giận.
Trinh cầm cây thiết trượng chạy tới, thì một cảnh tượng vừa thương tâm vừa đáng giận hiện ra trước mắt.
Trên mặt đất, Trinh thấy một người nằm cong queo giữa đường, đầu vỡ máu chảy lênh làng, chết tự bao giờ.
Đứng phía trước là một tên đại hán, một tay chống nạnh, tay kia chỉ vào thây người chết, mặt hầm hầm giận dữ, miệng bô bô chửi rủa.
Chung quanh, một số đông khách qua đường xúm lại tạo thành một cảnh vô cùng huyên náo.
Hoàng tử Dân Trinh đẩy đám đông lách vào trong rồi tiến lên hỏi tên đại hán.
Không ngờ, hắn càng làm tàng, gân cổ nói phách:
- Lão gia đây muốn đập chết đứa nào thì cứ đập.
Lão gia đang chờ đứa nào tới vuốt râu cọp.
Mi liệu có ba đầu sáu tay không mà dám nhảy vào hỏi lão gia?
Dân Trinh chưa nghe tên đại hán nói hết câu, máu hoả đã bốc cao ngút, liền cất cao cây thiền trượng múa một vòng rồi đập mạnh vào sọ hắn.
Một tiếng "bốp" vang lên, tức thì tên đại hán ngã quay đơ ra đất, đầu vỡ, máu vọt ra có vòi, nằm ngất lịm như kẻ chết rồi.
Cảnh tượng xảy ra quá đột ngột khiến bọn chưởng quỹ, tiểu bảo trong khách điếm sợ hãi cuống cuồng, ùa nhau chạy tới nắm lấy áo Dân Trinh không chịu buông.
Trinh bèn cho một tên thị vệ theo bọn tiểu bảo tới huyện nha thụ lý bản án, còn mình thì rời khỏi địa phận Sơn Tây trở về Bắc Kinh.
Khi về tới nhà, Dân Trinh thấy có một số đông kiếm khách và Lạt ma tăng tới thăm hỏi.
Nhân lúc vui tiệc, Trinh cho mọi người nghe chuyện mình đánh chết tên võ sư như thế nào.
Bỗng một vị Lạt tăng trong cử toạ lên tiếng nói:
- Không xong rồi! Võ sư đó vốn là một tên tâm phúc của thái tử.
Gia đình hắn có chuyện nên xin thái tử về quê ở Sơn Tây.
Nay hắn bị chủ tử đập chết, thái tử đời nào lại chịu bỏ qua mà không can thiệp chứ?
Dân Trinh nghe xong, chẳng thèm để ý, liền quát bảo lấy thêm rượu.
Hôm đó uống quá nhiều, Trinh say bí tỉ.
Bọn thị vệ phải xúm lại khiêng vào phòng trong.
Ngủ một giấc mãi tới nửa đêm Trinh mới tỉnh lại, miệng khát đòi nước.
Tên thị vệ vội dâng chén nước sâm.
Trinh đang định giơ tay đỡ lấy thì bỗng thấy từ ngoài cửa sổ một đạo bạch quang bay vụt vào chạm ngay giữa song cửa đánh rầm một tiếng, rồi lại quay vút ra ngoài.
Trinh vội tuốt lẹ cây bảo kiếm đeo bên hông tên thị vệ.
Vừa định chạy ra, bỗng thấy một vị Lạt ma hối hả chạy vào, tay lắc lắc ra dấu, miệng thầm bảo Trinh:
- Bên ngoài đang kịch chiến ác liệt, hoàng tử hãy coi chừng.
Trinh vội lôi tên thích khách từ đâu tới thì vị Lạt ma tăng lắp bắp nói được hai tiếng: "Thái tử", rồi im bặt.
Một đạo bạch quang lóe sáng như điện chớp lại từ bên ngoài cửa sồ bay vút vào, tạo thành một chuỗi âm thanh ghê rợn.
Một tiếng "phập" chát chúa vang lên.
Trinh vội nhìn vào chỗ phát ra âm thanh thì đó là một cây bảo kiếm bị ném đã cắm sâu vào thành giường cán còn lắc lư rung động, lưỡi kiếm phát ra những luồng sáng xanh lóe đến lạnh người.
Vị Lạt