Trần các lão, miệng thì hỏi tên tiểu đồng, chân thì tông mạnh cánh cửa phòng để vào trong.
Ông nhìn thấy phu nhân nước mắt đầy mặt, tay vỗ bàn, miệng kêu om sòm:
- Trời ơi! Thằng bé nhà ta rõ là con trai, thế mà vào vương phủ có một buổi bỗng biến thành con gái, ông ạ!
Trần Thế Quan nghe đoạn, đã hiểu cớ sự, vội xua tay nói:
- Đừng có làm om sòm lên!
Nói xong, ông đuổi hết mọi người trong phòng ra, đóng cửa lại, rồi mới gọi nhũ mẫu lại gần bên mà cật vấn.
Nhũ mẫu gạt lệ, đem chuyện tới vương phủ như thế nào, mụ quản gia bế cậu bé vào trong chuyện mãi tới chiều mới bế trả lại ra sao, không cho lật cái khăn phủ mặt cậu bé thế nào và khi về tới nhà cậu bé hoá thành cô bé ra sao, từ đầu chí cuối kể lại một lượt rành mạch không sót một chi tiết nhỏ nào, chỉ bỏ quên có một việc là y thị quá chén say chếnh choáng trong vương phủ mà thôi.
Trần Các lão nghe xong câu chuyện càng hiểu rõ thêm, bèn bảo nhũ mẫu:
- Trai hay gái chẳng kể gì! Trẻ nào cũng cần cho ăn no ngủ kỹ là được rồi, còn chuyện tới vương phủ từ nay cấm không được nhắc tới nghe không? Nếu người lắc lém cái mồm thì trước hết ta lấy đầu ngươi đó, nhớ chưa?
Nói xong, ông quát bảo nhũ mẫu ra ngoài ngay.
Nhũ mẫu hoảng hồn bạt vía, vội bế cô bé rút êm theo cửa hậu.
Lúc đó Trần Thế Quan mới bảo vợ:
- Này bà! Việc không có gì khó hiểu cả.
Vương phi sinh hạ một tiểu công chúa nhưng vì bà ta chót nói dối vương gia là một tiểu vương gia, nên mới bảo đem thằng bé nhà mình vào cung rồi thừa dịp đánh đổi.
Bây giờ, việc chạy vào vương phủ để đòi con về hẳn không được rồi.
Ngay cả nếu tùm lum lên thì chẳng những mạng thằng bé khó toàn mà toàn gia đình mình cũng hết sống nổi nữa.
Thôi, bà ơi! Già này xin bà từ nay chớ nhắc tới chuyện đó.
Số vợ chồng mình mà có con trai thì rồi thế nào chả có.
Bà đã sinh một đứa trai thì lo gì lại chả sinh đứa thứ thứ ba.
Trần phu nhân nghe chồng nói đầy đủ góc cạnh của câu chuyện mới vỡ lẽ, hết mọi nghi ngờ.
Toàn gia Trần Các lão hình như không ai hay biết có chuyện đó xảy ra.
Tính đủ hai tháng vương phi mới bế cậu bé ra cho Ung vương nhìn mặt.
Vương vừa nhìn qua thấy cậu bé mũm mĩm trắng trẻo, hơn nữa lại là con của phi tử Nữa Cô Lộc, thì lấy làm yêu quý lắm.
Người trong phủ đều gọi cậu bé là Từ vương gia.
Trần Thế Quan rất sợ việc đổi con này bị bại lộ, liên luỵ tới mình nên ông dâng sớ xin Khang Hi cho trở về quê vui thú điền viên.
Hoàng đế cố giữ lại mà không được, đành phải ưng thuận.
Ung vương thấy mất một tay thân tín thì lòng buồn khôn xiết.
May cho vương còn có Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc hai người đem hết tâm lực để phò trợ nên chẳng bao lâu phần nửa các hoàng tử đều trở thành tâm phúc của vương.
Trong số các hoàng tử, có Dân Chỉ, Dân Kỳ, Dân Hựu, Dân Nga, Dân Đường, Dân Đào, Dân Đê tự lập môn phái riêng, nhất định không chịu đi cùng một đường với Ung vương.
Bọn này một mặt thực hiện âm mưu của mình một cách kín đáo một mặt tìm cách lấy lòng vua cha.
Khang Hi hoàng đế bèn phong Dân Chỉ, Dân Kỳ, làm Thân vương; Dân Hựu, Dân Nga làm Quận vương; Dân Đường, Dân Đê làm bối tử.
Ung vương được tin này, càng lấy làm giận.
Trong bọn hoàng tử vừa kể trên phải nói Dân Dị, Dân Đường là hai đối thủ đáng ngại nhất của vương.
Thâm tâm bọn này là hoạt động ngấm ngầm để mưu đoạt ngôi thái tử cho bằng được.
Họ chẳng cần luyện tập võ nghệ, chẳng cần bầu bạn các tay hảo hán, chỉ thông đồng với mấy tên thái giám rồi nhờ đó giao kết với bọn phi tần, ngày ngày đem chuyện tồi bại của thái tử ra nói với nhà vua.
Chuyện nói xấu càng ngày càng nhiều.
Có kẻ nói thái tử nhiều lúc vào cung đùa cợt với cả phi tần.
Cung có kẻ nói thái tử kết ngầm bọn hư đảng mưu sát hoàng đế, bao chuyện động trời như vậy, dù là gan đồng dạ sắt cũng phải nổi đoá, huống hồ một người như Khang Hi hoàng đế.
Hơn nữa, những chuyện kể đây lại đều từ miệng mấy bà phi cưng quý nhất thì làm sao Khang Hi lại không tin.
Thế là ngài truyền lệnh cho Tôn Nhân phủ, phế ngay thái tử.
Nhưng Cố Luân công chúa cố tâm khuyên can đôi ba lần.
Bà nói:
- Hoàng thượng hãy bớt giận.
Phế lập thái tử là một đại sự chứ không phải việc thường.
Ngài nên bàn tính cẩn thận với các vị đại thần trước đã.
Qua ngày hôm sau, biên viễn có tin cấp báo, nói bộ lạc Cát Nhĩ Đan làm phản, hết sức ngang ngược.
Các bộ lạc Xa Thần, Trát Tát Khắc bị chiếm cứ, đều cho người chạy tới kinh đô cáo cấp năm lần, bảy lượt.
Khang Hi hoàng đế được tin lập tức toạ trào, cùng các vị đại thần thương nghị, rồi xuống luôn mấy đạo thánh chỉ.
Đạo thứ nhất phong Dụ Thân Vương Toàn Phúc làm Phủ Viễn đại tướng quân, Dân Đê làm Phủ Viên phó tướng quân, đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Bắc Cổ Khẩu.
Đạo thứ nhì phong Cung Thân vương Thượng Ninh làm An Bắc đại tướng quân, Giản Thân vương Nhã Bố Hoà và Tín Quân Vương Ngạc Lễ làm phó tướng quân đem theo năm vạn người ngựa xuất binh ra Hi Phong khẩu.
Đạo thứ ba khiến bọn Nội đại thần là Đông Quốc Cương, Đông Quốc Suy, bọn đại thần là Sách Ngạc, Đồ Minh Châu, bọn A Mật Đạt đô thống là Tô Noa Lạt Khắc Trì, Chương Xuân A, Tịch Đát Nặc Mại, bọn Hộ quân thống lĩnh là Miêu Tề Nạp, Dương Dại, bọn Tiền phong thống lĩnh là Ban Đạt Nhĩ, Sa Mai Đồ Đô tuỳ doanh tham tán quân vụ, đem tất cả mười vạn đại binh rầm rầm rộ rõ kéo thốc ra quan ngoại.
Không ngờ, một lực lượng hùng hậu như vậy mà suốt một năm trời từ mùa thu xuất quân tới mãi mùa hạ năm sau vẫn chưa đẩy lùi được bọn Cát Nhĩ Đan.
Khang Hi hoàng đế trong lòng càng thêm nóng nảy bực dọc.
Ngài bèn tự mình điều động ngự lâm quân mã kéo tới miền Bác Lạc Hà để đốc chiến.
Đồng thời ngài hạ lệnh thái tử Dân Nhung ở lại kinh đô giám quốc.
Khi Khang Hi hoàng đế vừa ra tới quan ngoại thì không ngờ cáo trạng tội ác của thái tử cũng bay theo ra như bươm bướm.
Có tờ tố cáo thái tử khi lăng tôn thất, có tờ tố cáo nhiễu hại bách tính, có tờ tố cáo tự tiện cướp đoạt cống vật, có tờ tố cáo làm loạn cung đình, có tờ khủng khiếp hơn, tố cáo âm mưu thí nghịch phụ hoàng.
Hoàng đế xem rồi lòng giận tức xưa lại nổi dậy, gần như phát điên lên.
Ngài lập tức hạ một đạo thánh chỉ, cho người về ngay kinh triệu thái tử ra quan ngoại.
Mấy ngày sau, thái tử Dân Nhung đã tới hành dinh.
Nhung vào trướng quỳ trước mặt phụ hoàng.
Khang Hi hoàng đế nghe Nhung nói khùng khùng điên điên thì bực tức đến cùng độ.
Ngài tuốt cây bội đao, vung lên chém Nhung một nhát.
May thay lúc đó có ông cậu Đông Quốc Duy đứng bên cạnh đỡ kịp.
nên không việc gì.
Hoàng đế vỗ bàn quát mắng um xùm, rồi nhỏ lệ ròng ròng xuống đôi má.
Ngài rủa thái tử hành động bậy bạ.
Chỉ vì nể mặt người mẹ mà ngài nín nhịn hai mươi năm trời và tha tội cho thái tử đó thôi.
Bây giờ, tội ác càng ngày càng nhiều, thái tử lại dám tự ý kết đảng, làm nhục đại thần, sinh tính hung ác, mưu hại anh em, thậm chí nhiễu loạn cả cung đình, mưu thí cả vua cha.
Người như thế quả đã cuồng vọng, bội nghịch đến quá mức, thử hỏi ngài còn muốn để lại trên đời này mà làm gì?
Khang Hi hoàng đế chửi rủa đến nỗi ngất xỉu luôn.
Lúc tỉnh dậy, ngài vẫn thấy thái tử quỳ trước mặt, bèn nhảy tới phía trước, giơ thẳng cánh tát hai cái vào mặt thái tử rồi quát lớn:
- Cút ngay đi cho rảnh mắt ta!
Hôm sau, mọi người thấy một đạo thánh chỉ hạ xuống, phế bỏ thái tử, giao binh quyền lại cho Khang Thân vương, rồi bãi giá hồi kinh.
Về tới kinh, Khang Hi hoàng đế sai cầm tù Dân Nhung, rồi triệu tập đại thần bàn chuyện lập thái tử mới.
Bọn đại thần anh nào cũng vì sự biệt đãi của hoàng tử mình phò trợ, nhân dịp này hết sức hết lòng đề cử chủ mình.
Hồi đó, Bát hoàng tử Dân Dị đã ngầm biếu xén rất nhiều châu báu vàng ngọc cho quốc cữu Đinh Quốc Duy và đại học sĩ Mã Tề để họ ngầm sai bọn Nội đại thần A Linh A; Tán trật đại thần Ngạc Luân Đại, Thượng thi Vương Hồng Tư, Thị lang Khuê Tự và cả Ba Hỗn Đại, làm tờ sớ tâu lên nói Bát A Ca (Dân Dị) có thể kế vị.
Khang Hi hoàng đế xem xong tờ sớ, chẳng ngờ nổi trận lôi đình, quát:
- Bát A Ca ít khi chăm lo đến công việc.
Huống hồ trước đây, hắn còn bị nghi là mưu hại thái tử.
Mẹ hắn lại xuất thân nơi bần tiện thì làm sao lập hắn được?
Ngài phái người bí mật điều tra, quả nhiên tra ra việc Dân Dị tư thông với bọn đại thần.
Qua ngày thứ hai, hoàng đế lên điện, lớn tiếng quát hỏi.
Ba Hỗn Đại giật mình kinh hoảng, mồ hôi toát ra như tắm, vội quỳ xuống đất, đem chuyện Đông Quốc Duy cùng Mã Tề hai người chi vẽ bọn y bảo tấu cho Bát A Ca như thế nào kể lại một lượt.
Khang Hi hoàng đế nghe xong, long nhan càng giận dữ.
Ngài lập tức cách chức tất cả bọn quan lớn nhỏ; lại cách luôn cả tước vị Thân vương của Dân Dị.
Đông Quốc Duy nhờ được cái thế quốc cữu nên chỉ bị quở trách vài câu rồi đuổi ra khỏi kinh sư, vĩnh viễn không được vào cung.
Đại học sĩ Mã Tề bị kết án ly gián tình cốt nhục trong hoàng gia, tội rất nặng, hạ chỉ giao hình bộ chém đầu.
Các quan văn võ Mãn triều cực lực tâu xin miễn tội, lúc đó hoàng đế mới khoan hồng, chỉ cách tước danh.
Dân Dị cũng bị giao về hình bộ nghiêm hành quản thúc.
Sau khi xảy ra việc động trời này, bá quan văn võ miệng đều câm lại như hến, chẳng còn kẻ nào dám ho he xin xỏ cho ai.
Ngay cả hoàng đế cũng chẳng thèm nói tới việc lập thái tử.
Mãi về sau, khi thấy hoàng đế bớt giận rồi thì hoàng hậu mới lên tiếng khuyên nhủ:
- Lập thái tử vốn là việc quốc gia đại sự.
Bệ hạ hiện có một số đông hoàng tử, ngài không thể không lập người kế ngôi.
vì có thế mới tránh khỏi chuyện biến loạn trong tương lai được.
Hoàng đế thấy hoàng hậu nói phải, liền bàn tính với bà, hỏi xem hoàng tử nào xứng đáng, thì bà nói:
- Thập tứ hoàng tử Dân Đường, tính vốn hiên hậu, có thề lập làm tự quân được.
Câu nói này của hoàng hậu thật rất hợp ý hoàng đế.
Song, thập tứ hoàng tử hiện còn nhỏ tuổi, nếu đem công bố thánh chỉ ra, e rằng có kẻ mưu hại mất.
Nghĩ tới chỗ này, bỗng ngài nhớ tới Ngạc Nhĩ Thái và Trương Đình Ngọc.
Hoàng hậu cùng hùa thêm, nói hai người này vốn có bụng trung thành có thể ký thác được, thánh chỉ liền hạ xuống, truyền Trương, Ngọc hai người vào cung gấp để bàn tính việc lớn.
Được hỏi về chuyện lập thập tứ hoàng tử lên làm thái tử, Ngạc Nhĩ Thái bỗng nghĩ ra một kế bèn đề nghị với Khang Hi hoàng đế:
- Xin thánh thượng tự tay viết chiếu truyền ngôi rồi bí mật đem giấu tại mặt sau tấm biển lớn của điện Chính Đại Quang Minh.
Đợi khi nào thánh thượng trăm tuổi, lúc đó Cố mệnh đại thần sẽ tới lấy chiếu thư tuyên đọc.
Các hoàng tử thấy thủ bút của thánh thượng, tất nhiên không còn ai có thể tranh vào vào đâu được nữa.
Khang Hi hoàng đế gật đầu khen hay.
Ngài nhớ tới quốc cữu Long Khoa Đa, liền cho triệu về cung, mặt khác và tự tay mình thảo tờ chiếu.
Chiếu như sau:
"Dân Nhung nhuốm chứng tật khó dạy bảo, đã bị truất phế.
Sau khi yến giá, trẫm truyền ngôi lại cho thập tứ hoàng tử Long Khoa Đa vốn là nguyên cữu (quốc cữu đầu tiên), Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đinh Ngọc đâ từng chịu cái ơn tri ngộ đặc biệt của Trẫm: các ngươi phải đồng tâm hợp lực phò trợ tự quân, làm sáng tỏ lẽ trời, chớ có bạc ơn mà hỏng trọng trách khiến phụ ý trẫm, Khâm thử".
Ba vị đại thần chịu cố mệnh của hoàng đế, đem tờ chiếu giấu kín vào sau tấm biển lớn tại điện Chính Đại Quang Minh.
Xong đâu đấy họ rút êm ra khói cung, ai về nhà nấy.
Cách lập đi chiếu này của Thánh tổ còn được dùng liên tiếp bảy đời về sau, suốt từ Ung Chính, Càn Long, Gia Khanh.
Đạo Quang cho tới mãi Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự.
Sau đó cũng là việc về sau, chưa cần nói tới.
Lại nói chuyện quốc cữu Long Khoa Đa vừa đặt chân tới phủ đã thấy tên nội giám của Ung quán vương ngồi đợi đó từ lâu.
Hai bên thì thầm.
Đa bảo tên nội giám hẹn gặp Ung vương tối hôm đó, vào canh ba bốn khắc.
Tên nội giám vội quay về vương phù hồi bẩm.
Trời đêm qua canh ba, Long Khoa Đa lặng lẽ bước ra cửa sau rồi tới cống hậu cung Ung vương, lẻn vào bên trong.
Khi tới một mật thất, ông đã thấy đại học sĩ Trương Đinh Ngọc, tướng quân Ngạc Nhĩ Thái đều đã có mặt tại đây.
Ngoài ra còn có vài vị quân sư, một đám đông kiếm khách.
Lát sau, Ung vương bước vào mật thất.
Cả bọn thì thào bàn tán với nhau suốt tới sáng mới nghỉ ăn cháo yến rồi giải tán.
Long Khoa Đa, Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc lại thượng triều như cũ.
Hoàng đế thăng điện, nhưng lúc này ngài không lớn tiếng, nặng mặt như hôm qua nữa.
Quan Binh bộ thượng thư xuất ban tâu:
- Muôn tâu thánh thượng! Văn thư cáo tiệp của Khang Thân vương từ tám trăm dặm vừa mới về tới, nói bộ chúa Cát Nhĩ Đan đã đại bại ở Đại Tích sơn, chạy trốn suốt đêm tới Cương A Não Nhĩ.
Hiện nay quân ta đã thu phục toàn bộ Cát Nhĩ Đan, bộ chúa đã đích thân tới đại doanh của ta nộp khoản đầu hàng Khang thân vương bất nhật ban sư về kinh.
Khang Hi hoàng đế nghe tin này, lòng vô cùng hoan hỉ, liền truyền chỉ khen thưởng, chuẩn bị tiệc mừng chiến thắng, đợi khi Khang thân vương về là đích thân xa giá tới để khao thưởng.
Chẳng bao lâu, Khang thân vương thống lĩnh đại binh về tới kinh.
Hoàng đế ngự giá ra khỏi thành đón rước.
Mười vạn đại quân vừa nhìn thấy hoàng đế nhất tề tung hô vạn tuế.
Ngài ngồi ngay trên ngựa, ban thưởng rượu mừng.
Qua ngày hôm sau, Khang thân vương đem theo cả bọn quan viên tướng tá tùng chinh vào triều tạ ơn, hoàng đế ban yến ngay tại Sùng Chính điện, hạ thánh chỉ thăng cấp cho mọi người, ban thưởng cho Khang Thân vương chức Tử cấm thành kỵ mã.
Lúc này, trong nước thái bình, bốn bề thịnh trị, Hoàng đế lại Nam tuần lần thứ sáu.
Nội đại thần sớm đã tống đạt văn thư đi khắp các tỉnh miền Giang Nam phải chờ chực tiếp giá suốt lộ trình.
Đã năm lần Nam tuần, hoàng đế lần nào cũng tới miền Tô Châu du ngoạn.
Đất này có một vị thân sĩ giàu có vào bậc nhất, họ Uổng tên Uyển.
Mỗi lần xa giá tới, vị Uổng thân sĩ này đều đem bọn sĩ