Chủ nhân họ Lương thấy ông khách quý của mình một thân cô quạnh buồn bã, bèn vắt óc nghĩ cách giải buồn cho khách.
Số là ở Quảng Châu vào đầu tháng giêng thường có những thuyền hoa nhởn nhơ trên sông Châu Giang, vui nhộn hết chỗ nói.
Trai thanh gái lịch phô quần diện áo, khoe phấn đua hương, nườm nượp suốt ngày đêm.
Tiếng tơ đồng nỉ non thánh thót, tiếng sáo thổi vi vu như đưa hồi vào cõi mộng, không lúc nào ngừng.
Trong đám nhà trò con hát cũng có nhiều ả xinh, Lương bèn gọi tới hầu hạ ông khách quý trong chiếc ghe tứ động.
Chiếc ghe tứ động được trang trí hết sức lịch sự, trang nhã có khoang trong kết hoa tươi thắm, cửa sổ treo đèn đỏ rực.
Ông khách chễm chệ ngồi bên trong.
Lương gọi dọn tiệc, rồi viết bức hồng tiên, tuyên triệu hết những danh hoa trong xóm chị em tới.
Ông khách quý được suy tôn lên ghế nhất cầm trịch, năm bẩy chục em út quây chung quanh để bồi tiếp, mua vui.
Thôi thì phấn hương, thôi thì oanh yến - chiếc ghe bỗng biến thành một nơi khoe sắc phô thanh xưa nay ít thấy.
Ông khách tuy tay hữu ôm, tay tả bế nhưng thực ra chẳng có một cô gái nào được ông để lại mắt xanh.
Một lát sau, ông lấy cớ ra ngoài, rồi nhân đó biến luôn vào khoang sau mất dạng.
Không ngờ, nhờ đó, ông mới được nghe tiếng nỉ non than khóc hình như của một người con gái.
Ông theo tiếng khóc lần tới, thì ra ở khoang chót tận sau lái có một cô gái đang bị mụ đầu lột truồng như nhộng, đánh tới tấp, nằm lăn trên sàn ván.
Chiếc roi trong tay mụ đầu càng vụt càng nhanh, chẳng tiếc thương gì làn da non mịn trên tấm thân như ngọc như ngà, chỉ vài phút sau đã thấy máu bật ra từng vết dài khắp mình.
Ông khách nhìn cảnh tượng, động lòng bất nhẫn, thốt lên một tiếng "đáng thương" rồi bước lẹ tới giật lấy chiếc roi của mụ dầu, bế xốc nàng lên, đưa ra khoang trước.
Khoang trước lúc đó đã đầy nghẹt các cô.
Ông khách bất chấp, thản nhiên lùa tay vào trong túi lấy khăn tay ra, vừa lau nước mắt cho nàng, vừa hỏi tên họ.
Người con gái nằm trong lòng ông vừa thút thít vừa trả lời:
- Tên em là Tiểu Yến.
Từ khi cha mẹ bán em vào chiếc thuyền hoa này, thường bị mụ đầu đánh mắng, bảo em lạnh nhạt với khách khiến không đắt hàng.
Ông khách nghe nàng nói, nhìn kỹ gương mặt của nàng, dù đầu bù tóc rối, mặt mũi lọ lem nhưng vẫn xinh đẹp tuyệt trần.
Ông liền mở chiếc áo tràng bào đang quàng lấy người nàng ra thì, trời ơi, cả một tấm thân tuyệt đẹp lồ lộ hiện Ta trước mắt khiến ông cầm lòng không được, bèn đưa tay vuốt ve làn da mịn màng, nõn nà còn hằn những vệt roi rớm máu.
Tiểu Yến xấu hổ, vội kéo vạt áo che kín thân mình đôi má hồng lên, nguýt ông khách, thì thào bên tai ông:
- Đừng làm thế, người ta cười chết.
Nhưng, khì nàng quay đầu nhìn một lượt thì chủ nhân họ Lương, và năm bảy chục cô đào kia đã rút lui từ lúc nào, bỏ lại họ một mình, tha hồ trò chuyện.
Thế rồi từ đó, ông khách đâm mê luyến Tiểu Yến, đi cũng có đôi, nằm cũng có đôi, luôn một lèo hơn tháng trời, chẳng thèm ra khỏi cửa khoang ghe nữa.
Lúc này, Tiểu Yến đâu có còn là Tiểu Yến ngày nọ.
Nàng tô điểm lộng lẫy, vàng ngọc đầy mình, suốt ngày quấn quýt bên ông khách vô danh, có hành tung, kỳ dị.
Đôi trai tài gái sắc ân ái muôn phần đằm thắm.
Thường chỉ có ông Lương đến gặp đôi phút, nói đôi ba lời rồi lại đi, chứ tuyệt nhiên chẳng có kẻ nào dám tới quấy phiền họ.
Ngày tháng thoi đưa, chớp mắt đã xuân đi hạ tới.
Ông khách quý bỗng bảo muốn trở về Bắc.
Hỏi ông về Bắc là về đâu, ông chẳng chịu nói.
Ông chỉ dặn dò chủ nhân họ Lương đem ba vạn lạng bạc chia làm ba: một vạn lạng thì tậu một biệt thự rộng rãi đồ sộ bên dòng Châu Giang, trồng cây, ươm hoa thật trang nhã một vạn lạng thì cấp cho người đẹp Tiểu Yến để giúp nàng hoàn lương và lấy tiền chi dụng hằng ngày, còn một vạn lạng thì cấp cho chính ông Lương.
Lúc lâm biệt, chú nhân họ Lương hỏi ngày nào trở lại, ông khách đôi mắt bỗng đỏ hoe và nói bằng một giọng hết sức cảm động.
- Ta đi lần này hành tung vô định.
Nếu việc ta làm thành công thì bằng rày sang năm ta trở lại.
Quá hạn đó, ta e kiếp này không có dịp gặp bọn ngươi nữa.
Ông nói đoạn quay sang thì thầm với Tiểu Yến:
- Ta với nàng yêu thương nhau đã bao ngày tháng thế mà họ tên ta nàng cũng chưa được biết.
Thôi để ta: nói cho nàng nghe.
Tên ta là Dân Đê, nếu nàng có nhớ đến ta, thì lúc vắng người, nàng cứ gọi đến tên ta tức là ta đã biết rồi đó.
Tiểu Yến nghe xong, khóc lóc thảm thiết, nhiều lần đến ngất đi.
Thế rồi giữa lúc nàng đau khố tới cùng cực, Dân Đê dứt áo ra đi.
Người đẹp Tiểu Yến ở trong biệt thự nhớ nhung chờ đợi đã ba năm mà Dân Đê vẫn mất tăm chẳng thấy trở về.
Mãi sau nàng mới đem tên họ của người khách nói cho chủ nhân họ Lương hay, lúc đó mới biết Dân Đê chính là anh em với đương kim hoàng đế.
Lương giật mình hoảng sợ, từ đó không bao giờ dám nhắc tới chuyện này nữa.
Về sau Dân Đê, Dân Dĩ, tuy không biết rõ tung tích nơi đâu nhưng vẫn còn đôi ba tin tức có thể truy tìm.
Tin tức này phát xuất từ một vị tú tài thanh bạch người phủ Cương Đức tỉnh Hà Nam, họ Trang tên Tuân.
Trang Tuân đã có mấy đời tổ phụ giữ trọng nhiệm về giáo dục.
Thân phụ là Trang Sĩ Hiếu đậu cử nhân từ lúc còn rất trẻ, chính Trang Tuân cũng đã đỗ tú tài Tuân sớm tối mong mỏi công danh phú quý, một ngày mai bay bổng với đời.
Ngờ đâu Tuân chỉ đỗ có một lần tú tài đó rồi thôi.
Khi Tuân hai mươi tuổi, cha mẹ lần lượt qui tiên.
Tuân vốn là người không biết lo liệu gánh vác gia đình, thành thử miệng ăn núi lở, phong bao lâu cả một sản nghiệp của cha ông để lại đã thấy có bề khó giữ.
Tuân quyết tâm lập chí, cố theo đuổi sự nghiệp văn chương, nên tinh thực hiện kế sách "dìm thuyền đập nồi", bán cho kỳ hết mấy mẫu bạc điền, xách gói ra đi.
Tuân lên kinh đô, bỏ một số tiền quyên lấy đanh nghĩa giám sinh để vào trường thi múa bút so văn, ai ngờ Tuân thi luôn ba khoa, rớt vẫn hoàn rớt, vẫn lại ông tú xác xơ như xưa.
Từ đó, buồn chán nghiệp văn lại thêm túng đói Tuân lưu lạc đến nơi kinh thành, ngày ngày thổi sáo giải buồn ngoài chợ Ngô.
May cho Tuân là có ông chủ quán của một khách điếm nọ giúp cho một chỗ ngồi trước cống điếm để bói toán kiếm ăn độ nhật.
Ngoài cửa Địa An môn, khách khứa đi lại đông đảo, quang cảnh vô cùng náo nhiệt.
Đây cũng là nơi bọn thái giám trong cung nội lai vãng hằng ngày.
Bọn này vốn có tính mê tín.
Bởi thế cứ mỗi khi có chuyện gì khó xử, lo lắng là lại tới hỏi Trang Tuân.
Điểm đặc biệt là trong đám thái giám, người phủ Chương Đức tỉnh Hà Nam chiếm một phần lớn.
Do đó, Tuân chơi thân với bọn này, hằng ngày nhắc lại những điều xa xưa nơi quê hương bản quán.
Thế rồi không biết từ đâu, một truyền mười, mười truyền trăm, tới tai tên trùm thượng y giám là thái giám Lưu Vĩnh Trung.
Trung với Tuân vừa là đồng hương lại vừa là bà con thân thuộc của nhau.
Trung nghe bọn đàn em thường nói tới Tuân, bèn nhân lúc rỗi rảnh chạy ra cửa Địa An môn tìm.
Từ xa, Trung đã thấy Tuân với chiếc bàn con dùng làm nới bói toán, kê cạnh cổng khách điếm.
Trung bước nhanh tới, gọi lớn:
- Tuân đại ca!
Tuân nghe có người gọi mình vội ngước đầu lên nhìn, thấy Trung hơi quen quen nhưng vì lâu năm không gặp nên nhất thời không nhận nổi.
Tuân ngờ ngợ một lát rồi mới sực nhớ, vội cười nói:
- Túc hạ có phải Lưu nhị ca của Lưu gia trang ta không?
Lưu thái giám gật đầu, cười khà khà, ra chiều mừng rỡ.
Trang Tuân vội dọn dẹp đồ lề rồi dắt tay Trung kéo vào quán hàn huyên.
Trung khoe với Tuân mình được làm tồng quản thượng y giám, ngày ngày được gặp mặt thái tử và được thái tử tin dùng.
Trung còn khoe trong cung hoa lệ ra sao, đồng bọn đông đảo như thế nào, xoay tiền kiếm lợi đủ cách ra sao, khiến Tuân nghe mà đầy thèm khát.
Qua ngày hôm sau, tổng quản thái giám Lưu Vĩnh Trung lại mời thầy bói Trang Tuân tới gặp tài Đại bằng lan tửu lẩu.
Nhậu được một lát Tuân hỏi Trung:
- Đồng bọn của nhị ca ở trong cung có bao nhiêu người?
Trung tổng quản bóp trán suy nghĩ một chập rồi nói:
- Ước tính có tới hơn hai ngàn.
Rồi Trung vừa bấm đốt ngón tay, vừa tính vừa kể:
- Tại Càn Thanh cung, có hai viên tổng quản, bốn viên thử lãnh với hai mươi bốn tên thái giám; ba viên thủ lĩnh quét dọn với tám mươi sáu tên quét dọn.
Lại Chiêu Nhân điện có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám.
Tại Hoàng Đức điện có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại Mậu Cần điện có một viên thủ lĩnh với chín tên thái giám.
Dưới sáu gác chuông đánh hiệu có mười bốn tên thái giám, sáu viên thủ lĩnh chấp sự với sáu mươi sáu tên thái giám.
Tại phòng ngự trà có hai viên thủ lĩnh với năm mươi hai tên thái giám; hai viên thủ lĩnh đưa rước vua lên kiệu xuống kiệu với ba mươi bảy tên thái giám.
Tại Khôn Minh cung có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám.
Tại Đông Noãn điện có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám.
Tại Tây Noãn điện có hai tên thủ lĩnh với chín tên thái giám: Tại Giao Thái điện có hai tên thủ lĩnh với năm tên thái giám.
Tại Duyến Chi cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám.
Tại Trường Xuân cung có hai tên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám.
Tại Vĩnh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám.
Tại Đức Khôn cung có hai viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám.
Tại Vĩnh Hoà cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại Khải Trường cung có hai viên thủ lĩnh với mười tám tên thái giám.
Tại Thừa Kiến cung có hai viên thủ lĩnh với mười lăm tên thái giám.
Tại Hàm Phúc cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám.
Tại Sư Tú cung có hai viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám.
Tại Canh Long cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại Cảnh Nhân cung có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại gần cứa Quang Tả môn có sáu tên thái giám.
Tại Ngự thư phòng, có hai viên thù lĩnh với mười tên thái giám.
Tại Cổ đông phòng có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám.
Tại Nam thư phòng có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại thư phòng của các hoàng tử có mười lăm tên thái giám.
Tại Tây thư phòng có năm tên thái giám.
Tại Phiên thư phòng có bốn tên thái giám, tại Kinh sự phòng có một viên thủ lĩnh với hai mươi sáu tên thái giám, sáu tên ngự tiền thái giám, mười hai tên đợc thanh thư thai giám.
Tại Càn Thanh cung có hai viên thủ lình với tám tên thái giám.
Tại Nhật Tinh môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám.
Tại Nguyệt Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám.
Tại Nội Tả môn có hai viên thủ lĩnh với mười bốn tên thái giám.
Tại Nội Hữu môn có hai viên thủ lĩnh với hai tên thái giám.
Tại Cảnh Hoa môn có hai viên thủ lĩnh với tám tên thái giám.
Tại Long Phúc môn có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám.
Tại Cơ Hoá môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại Đoan Tắc môn có hai viên thủ lĩnh với mười hai tên thái giám.
Tại Cần Quang tả môn có bảy tên thái giám.
Tại Dưỡng Tâm điện có hai viên thủ lĩnh với hai chục tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo (coi việc quét dọn) với mười hai tên thái giám đã tảo năm tên thái giám tiễn tượng (thợ làm tên) năm tên thái giám án ma, hai thái giám thiết tượng (thợ sắt), hai tên thái giám học thuốc tây, một tên thái giám hoa tượng (thợ vẽ) mười tên thái giám điểu thương.
Tại Dưỡng Tâm lộ phòng có ba tên thái giám.
Tại phòng khăn áo có một viên thủ lĩnh với mười tên thái giám.
Tại đại điện nuôi chim ưng có hai viên thủ lĩnh với hai mươi bốn tên thái giám.
Tại phòng nuôi chó lớn, chó bé có hai viên thủ lĩnh với ba mươi tám tên thái giám.
Tại phòng nuôi bổ câu có năm tên thái giám.
Tại ngự hoa viên có ba viên thủ lĩnh với năm chục tên thái giám.
Tại Bắc Tiêu hoa viên có hai tên thủ lĩnh với mười tên thái giám.
Tại Đại Khung điện có hai viên thủ lĩnh với bảy tên thái giám.
Tại Trung Chính điện có mười bốn tên thái giám.
Tại Khâm An điện có hai viên thu lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám.
Tại phòng bếp nước có một viên thủ lĩnh với mười sáu tên thái giám.
Tại phòng củi đuốc có một viên thủ lĩnh với hai mươi tên thái giám.
Tại phòng lò sưởi có hai viên thủ lĩnh với mười bảy tên thái giám.
Tại sở Triệu Tường có hai viên thu lĩnh với mười bốn thái giám.
Tại thư phòng có sáu tên thái giám.
Tại Ngộ Hỉ sơ có hai viên thủ lĩnh với mười ba tên thái giám Tại sở nội có một viên tổng quản chín viên thu lĩnh với năm mươi ba tên thái giám.
Tại Vĩnh An đình, có ba viên thủ lĩnh với hai mươi lăm tên thái giám.
Tại Nam phủ tây lộ, có ba viên thú lĩnh với ba mươi tám tên thái giám.
Tại Nam phủ trung lộ, có ba viên thu lĩnh với mười lăm tên thái giám.
Tại Nam Huân điện có một viên thủ lĩnh với ba mươi bốn tên thái giám.
Tại Ham An cung có hai viên thủ lĩnh với bốn mươi tên thái giám.
Tại Phật đường ở Từ Ninh cung có hai viên thủ lãnh với tám tên thái giám; còn có hai viên thủ lĩnh Lạt ma với ba mươi tên thái giám, hai viên thủ lĩnh tụng kinh với mười sáu tên thái giám, hai viên thủ lĩnh giữ cửa với mười hai tên thái giám, hai viên thủ lĩnh hoa viên với bốn tên thái giám, hai viên thủ lĩnh đã tảo với mười hai thái giám đã tảo.
Tại Ninh Thọ cung có hai viên thủ lĩnh với mười tên thái giám.
Tại Dục Khánh cung có bốn viên Diện thượng thủ lĩnh với sáu mươi tên thái giám; còn có một viên thủ lĩnh coi chim ưng với mười lăm tên thái giám; một viên thủ lĩnh gác cổng với mười một tên thái giám; một viên thủ lĩnh phòng chó với ba mươi tên thái giám; hai viên Chấp sự thủ lĩnh, với mười tám tên thái giám; hai viên thủ lĩnh phòng trà với hai mươi hai tên thái giám, năm tên thái giám điểu thương; một viên thủ lĩnh đã tảo với hai mươi tên thái giám, một trăm tên thái giám duệ tiền (trước vua), một trăm thái giám A Ca hạ, lại một trăm lẻ hai tên thái giám A ca hạ, sáu mươi tám tên thái giám A ca hạ, lại tám mươi thái giám A ca hạ nữa.
Tại kho đông có sáu thái giám A ca hạ, lại kho tây có bốn tên thái giám A ca hạ…
Lưu tổng quản kể một hơi, thao thao như nước chảy khiến Trang Tuân nghe đến đầu nặng mắt hoa.
Đợi cho Trung tạm ngưng Tuân mới lên tiếng nhờ vả.
- Trong cung nội đã dùng tới không biết cơ man nào thái giám như vậy, thì thêm một tiểu đệ có lẽ cũng chẳng nhiều gì.
Tiểu đệ cầu mong nhị ca đưa giúp vào cung làm một tên thái giám, để khỏi phải đói rét vất vả như nay ở ngoài đời.
Trung nghe Tuân nói xong, không khỏi vỗ tay xuống bàn đến bốp một cái rồi phá lên cười bảo:
- Cái ông Trang lão gia này quả thật hồ đồ quá sức! Thiến dái đâu có phải chuyện đùa! Lão gia tuổi tác như thế kia e rằng chết thì phí đi.
Nếu lão gia muốn làm ăn thì tớ giúp cho việc này: Số là nơi đây, bọn tớ có cái món thầu áo long bào, thường giao dịch thơ từ với bọn hãng dệt Giang Nam.
Nếu không ngại cái chuyện phải vào luồn ra cúi thì lão gia hãy nhận làm một tên chạy cờ đi đã rồi ta tính.
Trang Tuân nghe xong, sướng đến mê người, vội ngỏ lời cảm tạ.
Từ đó, Tuân trở thành viên thư ký cho Lưu tổng quản.
Phàm những tin riêng đi lại giữa Trung và các quan tỉnh phủ đều do tay Tuân viết giùm.
Tuân được Trung chiếu cố nên chẳng bao lâu tình cảnh của Tuân đã mát mặt, khỏi phải lo sinh kế nữa.
Tuy nhiên, Tuân vẫn thèm thuồng vì chưa được biết cung điện thế nào, du ngoạn thích thú ra sao, bởi thế Tuân thường nói với Trung nhờ y đưa vào cung chơi một phen cho biết.
Lưu tổng quản chẳng khó dễ gì với Tuân, vui lòng ngay, nhưng bảo chờ khi có cơ hội tốt đã.
Sau đó ít hôm, áo long bào của xưởng dệt Giang Nam đã đưa tới.
Trung bèn đem mười tám thái giám đến gia môn nội phủ để lĩnh về.
Nhờ dịp tốt đó Trung bảo Tuân cải trang thành thái giám, đeo lính bài, trà trộn vào bọn mười tám tên thái giám kia, cũng vác kiện áo long bào, lần lượt đi hàng một tiến qua cửa Càn Thanh mà vào cung.
Qua khỏi cửa cung, Tuân thấy tường vách cao nghệu, cung điện nguy nga đồ sộ, sắc ngói vàng xa tít tắp, nào gác hoạ thêu hoa, nào mái cong, cột chạm, bất cứ cái gì cũng làm cho Tuân mắt hoa đầu choáng.
Qua khỏi Càn Thanh môn là đến Càn Thanh cung.
Bước vào cung, Tuân thấy về phía đông toà môn lâu treo tấm biển khắc ba chữ Hoàng Dực điện, về phía tây cũng một toà môn lâu treo tấm biển Chiêu Nhận điện về phía bắc là một cổng lớn, mặt đông đề ba chữ Đông thư phòng, mặt tây đề ba chữ Tây thư phòng, bên trong thấp thoáng bóng người mặc triều phục đi lại.
Ngoài cổng, bốn, năm tên thái giám đang đợi chờ.
Khi thấy Lưu tổng quản đi tới bọn thái giám tiến lên đón rước, cười cười nói nói.
Đoàn người đi quanh về ngả Tây thư phòng.
Sau Tây thư phòng có một dãy tịnh thất ở phía bên kia bức tường, trên cao viết mấy chữ Nam thư phòng, bên trong có tiếng người nói chuyện.
Đoàn người vác những kiện áo long bào vẫn đi tiếp.
Họ rẽ về dãy hành lang phía tây, rồi qua dãy hành lang phía bắc.
Nơi đây cũng có mấy căn nhà trên có tấm biển đề mấy chữ Phiên thư phòng.
Lưu thái giám đưa đoàn người xuyên qua Nguyệt Động môn đến ba căn phố trệt, bảo một tên đỡ mấy kiện áo trên vai thay cho Tuân rồi dặn Tuân ngồi chờ nơi đây…
Trang Tuân theo lời dặn của Lưu tổng quản, lẻn vào trong căn phố trệt, tựa cửa sổ ngồi xuống, phóng tầm mắt nhìn qua song cửa.
Tuân chỉ thấy bọn thái giám tụm năm túm ba kéo nhau qua phía trước cửa sổ, có bọn thì vội vã hấp tấp, có bọn lại đủng đỉnh như không phải lo bận điều gì, miệng thì thào bàn tán với nhau, cũng có kẻ tay cầm những cái hộp nhỏ đi qua đi lại.
Tuy vậy, bọn nào cũng chỉ thì thào trò chuyện chứ đố ai dám cười to nói lớn.
Giữa lúc đang nhìn ngắm đến xuất thần, Tuân cảm thấy như có bàn tay ai vỗ nhẹ vào vai mình.
Tuân vội quay đầu lại thì ra là Lưu tổng quản.
Lưu lúc đó tay không.
Tuân biết Lưu đã làm xong mỏi việc.
Tuân theo Lưu tồng quản ra khỏi cản nhà trệt rồi qua cửa Nguyệt Hoa môn, đối diện Nguyệt Hoa môn là một một toà đại điện trên đề Mậu Cần điện phía trong có đủ ngai vàng trướng gấm hết sức trang nghiêm.
Tuân và Lưu tống quản lại quanh Càn Thanh cung.
Đối diện cung cũng có một cung điện lớn, treo màn gấm sặc sỡ trên cỏ tấm biển đề "Khôn Ninh cung".
Về phía hành lang mặt đông có một toà đại điện gọi Đông Noãn điện.
Về phía hành lang mé tây có một toà đại điện gọi Tây Noãn điện.
Thẳng về phía bắc là toà Khâm An điện.
Đi vòng qua Khâm An điện thì đến Ngự hoa viên và cửa Thành Võ.
Trung và Tuân, một thái giám thực, một thái giám giả, hai người không đi vào cửa này mà lại quanh về phía đông mà ra.
Trước hết họ qua Chung Tuý cung, sau đó xuyên qua Tràng Xuân cung.
Cảnh Nhân cung, Cảnh Dương cung, Thừa Kiến cung, Diên Hỉ cung rồi trở lại Chiêu Nhân điện như cũ.
Nghỉ một lát, Lưu tổng quản lại đưa Trang Tuân theo Tư Đức điện quanh về ngã Dực Khôn cung, rồi Vĩnh Hoà cung, Hàm Phúc cung, Vĩnh Thọ cung, Khải Tường cung, Sử Tú cung, xem cho kỳ hết mọi cung, mọi điện.
Thực là nhà cửa san sát, lâu đài rực rỡ, không thể tả xiết cái cảnh phú quý hoa lệ.
Trang Tuân đi tới đâu, miệng khen lấy khen để tới đó.
Nhưng Trung xua tay bảo Tuân im lặng, bởi vì trời lúc này đã quá ngọ, vào giấc nghỉ trưa: Dọc đường hai người ít gặp bọn thái giám và cung nữ.
Khi xem xong khắp nơi trong cung nội, Trung và Tuân bước qua cửa Thần Vô tới Ngự Hoa viên.
Trong vườn, đình, đài thấp thoáng hoa cỏ tốt tươi, tiếng chim hót líu lo vang lên bên tai càng làm cho du khách thêm phần thú vị.
Nơi đây năm bước một lầu, mười bước một gác, quả đúng như thế thật!
Giữa lúc hai người đang đi sâu vào nơi muôn tía nghìn hồng thì bỗng phía sau, một tên tiểu thái giám vừa chạy theo vừa gọi Lưu tống quản:
- Trương tổng quản có câu chuyện muốn nói với lão gia đấy?
Lưu tổng quản nghe đoạn vội dừng bước rồi vừa chỉ tay vừa bảo Trang Tuân:
- Lão gia cứ đi về phía trước, xuyên qua khóm cây kia, tới một toà đại sảnh quay mặt ra cả bốn phía, ngồi đợi một lát.
Tại hạ đi chắc không lâu sẽ trở lại ngay.
Nói đoạn Trung quay đi.
Tuân thong thả bước ra khỏi những lùm hoa, quả nhiên thấy một toà đại sảnh bốn mặt đều có cửa, có bao lơn bao quanh và có đặt rất nhiều chậu cảnh, bồn hoa.
Bước vào đại sảnh Tuân thấy trên vách tường bốn mặt đều vẽ phong cảnh rất u nhã, chen lẫn những bài thơ, chữ viết đẹp như cắt.
Tuân vốn người đọc sách, hễ thấy chữ, thấy thơ là thích, là quý, bèn gắn mũi vào tường, đọc hết bài thơ này đến bài phú nọ.
Giữa lúc mê mải đọc, Tuân bỗng nghe có tiếng quát từ xa vọng lại, Tuân giật mình, ngẩng mặt lên nhìn qua ngách cửa sổ, thấy máy tên nội giám đang khiêng một cỗ noãn kiệu đi tới trong kiệu là một người đàn ông có vẻ oai võ đáng sợ.
Tuân nghi là hoàng thượng giá tới, hoảng hồn bạt vía, cảm thấy đôi chân bỗng mềm ra như bún, muốn run mà run không nổi, muốn bước để trốn mà bước không xong.
Nhưng rồi thấy giữa sảnh có một chiếc sập lớn, Tuân gắng hết bình sinh lết vào dưới gầm sập, để tai hướng ra ngoài nghe ngóng.
Một loạt tiếng giầy lộp cộp bước từ ngoài vào.
Rồi một người leo lên ngồi trên sập.
Trong sảnh lặng lẽ như tờ, ngoài những tiếng sột soạt của bộ quần áo mới chạm va vào nhau.
Một phút im lặng đi qua…
Tuân bỗng nghe người ngồi trên sập cất tiếng nói:
- Đem bọn chúng lên đây cho ta.
Tiếng nói của người này hết sức lớn, có một âm hưởng dữ tợn.
Tiếp đó, có vài ba người khác xuất hiện.
Rồi những tiếng xích sắt rổn rảng vang trên nền nhà.
Ba người vừa mới xuất hiện, bị bắt quỳ trên nền gạch.
Trong đó có một người tỏ vẻ quật cường hết sức, mặc cho bọn thị vệ tả hữu quát bảo y quỳ xuống mà y vẫn không chịu.
Đã thế y lại còn lớn tiếng quát rầm lên:
- Dân Trinh! Mi là một đứa lòng lang dạ sói, vô cùng hiểm độc! Ta với mi vốn anh em cốt nhục chứ chẳng xa lạ gì! Mi cưỡng chiếm ngai vàng làm hoàng đế, việc đó ta chẳng thèm nói tới làm chi.
Vậy mà đến tính mạng bọn ta, mi cũng chẳng chịu dung tha, nhất định mưu hại cho kỳ được.
Ta hỏi mi, chứ hai vị ca ca Dân Dị, Dân Đường tội gì mà mi bắt gọi là chó là heo? Đã thế mi lại còn giam cầm tù đầy họ, còn ta, tên Dân Đê này, từ lúc phụ hoàng còn tại thế ta đã từng nắm binh mã nam chinh bắc phạt, lập biết bao công lao cho triều đình, nay không luận công hành thưởng chăng nữa, cũng không đến nỗi phải tù đầy giam câm như một tên tử tội.
Ta nói để mi biết cái ngai hoàng đế mi đang ngự chính là của ta chứ đâu phải của mi.
Mi mãi thông với quốc cữu Long Khoa Đa lẻn đến sửa chiếu chỉ, đổi câu: "truyền vị thập tứ hoàng" ra "truyền vị vu tứ hoàng tử" để cướp ngôi báu của ta.
Mi tưởng những hành động gian lận xảo trá đó dễ không ai biết chăng? Hừ! Hừ! Dân Trinh! Mi rồi đây chết khó toàn thây đó.
Người, ngồi trên sập bị kẻ kia chửi bới một phen quá xá, bất giác máu hoả bốc lên, ra lệnh:
- Bất tất nói nhiều! Bay đâu! Đem hoá chúng thành tro ngay cho ta!
Bọn thị vệ tả hữu dạ ran, vâng lệnh.
Tuân ghé mắt, thấy một vật gì như cái chiếu trải trên mặt đất, được cuộn lại mở ra mấy lần trong chốc lát rồi chỉ nghe bọn thị vệ báo cáo rằng ba thân vương đều đã hoá thành tro cả.
Người ngồi trên sập cười nhạt mấy tiếng, đứng dậy.
Mấy tiếng quát ồm ồm nổi lên như khi tới, tức thì bọn nội giám lại ghé vai khiêng chiếc kiệu thoăn thoát bước đi, nhẹ nhàng thanh thản như không có chuyện gì xảy ra.
Trang Tuân nằm dưới gầm sập, thấy cái cảnh khủng khiếp quá đến nôi y đâm ra như ngớ ngẩn.
Mãi tới khi Lưu tổng quản quay về nơi đại sảnh, tìm thấy y dưới gầm sập kéo ra, thấy y ngây ngây ngốc ngốc, miệng cứ lập bập nói mãi câu "Làm tôi sợ đến chết, đến chết mất" thì chẳng hiểu ra sao cả, Lưu tổng quản vội đưa Tuân về khách điếm, miệng y vẫn cứ lảm nhảm không thôi: "Làm tôi sợ đến chết mất".
Từ đó, Tuân đâm ra điên thật, hễ gặp ai là y nói câu "Làm tôi sợ đến chết mất".
Lưu tổng quản tới thăm Tuân đôi ba lần, cho mời cả danh sư tới bắt mạch hốt thuốc cho Tuân.
Nhưng thuốc đổ vào miệng Tuân chỉ như nước đố vào lỗ cống, thoáng cái đã tiêu đi đi mất mà bệnh vẫn hoàn bệnh.
Lưu tổng quản đành chịu chẳng biết làm cách nào hơnl, chỉ còn biết nhờ người đưa y về quê dưỡng bệnh.
Thương thay cho Tuân, điên luôn một lèo mười lăm lăm trời, đến khi Ung Chính hoàng đế đã chết, Tuân mới dám đem câu chuyện khủng khiếp trên nói ra cho người ngoài biết.
Chỉ vì Khang Hi hoàng đế có dạ khoan hồng nên Ung Chính mới sinh lòng độc, lại còn hành xử quá đáng đối với các hoàng tử cùng bà con thân thuộc như vậy.
Thủ hạ của Chính đã đông, tai mắt lại lắm.
Chính ngài cũng thường cải trang thành kiếm khách, vi hành ra ngoài điều tra.
Dù cho ai ngồi trong phòng kín đến đâu chỉ cần có nửa câu phỉ báng hoàng đế, tức thì cái sọ của người đó lập tức bay mất.
Từ khi Ung Chính hoàng đế thu được, cái gọi là Huyền trích tử rồi lại được vị quốc sư truyền thụ Chú ngũ Lạt Ma thì ngài muốn giết ai là được ngay.
Ngài chẳng cần động thủ mà chỉ cần niệm câu thần chú, tức thì Huyết trích tử đi lấy ngay đầu người ấy đem về cho ngài.
Cần nói thêm về cái gọi là Huyết trích tử.
Đấy là một trái cầu tròn làm bằng thép luyện, bên trong gài hơn mười lưỡi dao bén nhọn như hình cánh chim, mỗi khi cơ quan hoạt động tức thì những lưỡi dao đó xoay tròn như vành bánh xe, xoay tít.
Câu thần chú niệm vừa