Qua hôm sau, bà Tôn quả nhiên thấy bà Hồ cho mụ mối tới nhà.
Lúc trước, Hàm Phương tiểu thư thấy nhà họ Cố đến cầu hôn, cứ tưởng rằng chàng họ Cố bất quá chỉ là anh chàng khố đũi áo nâu, quê mùa dốt nát nên mới cự tuyệt.
Nhưng lần này nàng thấy chàng rõ là một vị công tử đàng hoàng, hơn thế nữa còn đẹp trai, đa tình, thì hỏi sao nàng không ưng thuận.
Một điều nữa khiến nàng coi như là đã có duyên tiền định, khi nhớ lại lúc hai người ôm cứng nhau ở dưới sông, da thịt đã gắn sát vào nhau hồi lâu rồi.
Trong tâm khảm, nàng đinh ninh rằng kiếp này duyên này coi như đã giao phó cho chàng.
Nàng đem chuyện này hỏi nhỏ cô em thì cô em Thục Phương cũng bằng lòng cùng nàng lấy chàng họ Cố.
Thế là hai chị em nguyện ý cùng lấy một chồng.
Hàm Phương bèn đem ý đó của mình và em thì thầm với mẹ.
Thấy con đã bằng lòng, bà Tôn bèn cho mụ mối về báo cho bà Hồ biết.
Bà Hồ thấy bà Tôn đã bằng lòng hứa gả mà lại gả cả hai cô, vẻ mừng hiện ra nét mặt.
Chàng Cố Thiếu Xuân lúc này có lẽ là người sung sướng hơn ai hết.
Bởi thế bệnh chàng tự nhiên biến khỏi như có phép lạ.
Bà Hồ thấy con đã khỏe mạnh như thường bèn chọn ngày định việc cấu hôn cho con.
Không ngờ ông tạo trớ trêu, mấy khi chuyện vui được trọn vẹn đâu.
Một ngày trước hôm định việc cầu hôn, Cố Thiếu Xuân bỗng nhận được một phong thư của cha gởi từ kinh thành về nói ông đã định việc hôn nhân cho chàng tại Bắc Kinh rồi.
Ông thân bên nhà gái cũng làm quan ở kinh và đôi bên đã ước hẹn hôn lễ sẽ cử hành nội trong năm.
Cố Thiếu Xuân được tin này chẳng khác nào gáo nước lạnh dội lên đầu, miệng há hốc mà chẳng nói được lời nào.
Chàng chỉ còn biết khóc suốt cả đêm đó.
Qua ngày hôm sau, chàng bệnh nằm liệt giường liệt chiếu như cũ.
Bà Hồ thấy vậy trong lòng đau đớn lắm.
Bà dùng lời ngon ngọt dỗ dành an ủi.
Mặt khác bà cho mụ mối qua nhà bà Tôn từ hôn.
Hai chị em Hàm Phương được tin này, trái lại không khóc lóc, không nói năng gì cả.
Hai nàng đã thủ thỉ với nhau quyết ở vậy không thèm lấy chồng nữa.
Gia đình hai nàng vốn giàu có, lại không có con trai, cả cơ nghiệp đồ sộ đó đều do hai nàng nắm giữ cả.
Nhưng Cố Thiếu Xuân không thể thản nhiên được.
Lòng chàng vừa buồn sầu vừa nóng nảy đến không nén nổi.
Hồi đó đã vào lúc mùa hè nóng nực.
Thiếu Xuân đưa cái giường của chàng ở thư phòng đến bên cạnh cửa sổ để có thể thấy được hình bóng người yêu trên lầu trang phía bên kia, ngay cả lúc chàng đi nằm nữa.
Dụng ý của chàng là như vậy, nhưng bà mẹ Hồ thị đâu có hiểu.
Bà chỉ biết chiều theo ý cậu con trai cưng.
Nằm tại nơi đây được vài hôm, Cố Thiếu Xuân nhìn sang lầu trang bên kia thấy cửa đóng suốt ngày im ỉm.
Chàng tưởng rằng chị em Hàm Phương tiểu thư cũng bệnh như mình.
Thật đáng thương cho cả đời người chỉ cách có một con sông mà không có cách gì trò chuyện được với nhau.
Chàng nhớ đến người yêu mà lòng tê tái, nhiều đêm thức trắng chẳng chợp mắt.
Có một hôm, vào nửa đêm, Cố Thiếu Xuân đang nằm trên giường trằn trọc xoay qua xoay lại không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa cành cạch.
Chàng gượng dậy, nhẹ bước ra mở cửa.
Một hình bóng mỹ nhân sừng sững đứng trước mặt chàng dưới ánh trăng.
Chàng nhìn kỹ và nhận ra là Hàm Phương.
Chàng mừng quá rồi như không tự chủ được nữa, chàng nhảy chồm ra, giơ hai tay ôm choàng lấy nàng, miệng run run cảm động nói:
- Anh nhớ em đến chết mất thôi.
Người con gái vội giơ tay đẩy Thiếu Xuân ra, thì thầm:
- Em không phải Hàm Phương đâu? Em là Thục Phương đó.
Chị em nhớ anh quá lắm! Anh chạy mau sang thăm chị một tí.
Cố Thiếu Xuân nhìn thấy chiếc thuyền của Thục Phương cặp ngay bên bờ sông, bèn chẳng còn để ý đến mình bệnh mình đau nữa, vội nắm lấy tay Thục Phương bước xuống thuyền.
Khi thuyền đã qua bờ bên kia, chàng thấy Hàm Phương đang đứng chờ sẵn.
Thế là cả ba cùng sánh vai ngồi trên phiến đá rộng trò chuyện với nhau.
Một hàng liễu rủ bóng thướt tha che kín cả chỗ họ ngồi, thành thử không một ai thấy mà biết được, ba người trò chuyện mãi tới canh năm mới trở về phòng.
Thế rồi từ đó cứ mỗi đêm, trên phiến đá bên sông, người ta thấy phảng phất bóng ba người kề vai ngồi dưới ánh trăng ngà.
Chỉ mãi tới lúc gió sớm nổi lên, trăng tàn bến vắng, ba cái bóng lại mới chia tay ai về phòng nấy.
Mùa hè qua mùa thu tới, gió heo may bắt đầu thổi, hơi lạnh đã thấm vào thịt.
Thục Phương cảm thấy lạnh không chịu nổi bèn nghĩ ra một cách: Nàng bảo Thiếu Xuân chú ý cứ đến khi nào mẹ nàng đã an giấc thì nàng sẽ treo một chiếc đèn lồng đỏ ở trước lầu để báo hiệu.
Và lúc đó chàng cứ việc chèo thuyền sang, hai nàng sẽ đón vào nhà.
Nàng cũng không quên căn dặn chàng là hễ không thấy đèn thì chớ có sang.
Thiếu Xuân đã được ám hiệu, đêm hôm đó chèo thuyền sang lẻn vào lầu trang, quả là hương vị của tình yêu ngọt ngào không bút nào tả xiết.
Việc tư tình qua lại này thấm thoắt được nửa năm thì bỗng một đại hoạ xảy ra.
Hai chị em Hàm Phương đêm đêm treo chiếc đèn đỏ rồi kề vai ngồi tại hiên lầu nhìn qua phía bờ bên kia.
Nhưng rồi hôm đó hai chị em nàng đang ngồi đợi bỗng một mũi tên độc bay vụt tới, chỉ một mũi tên thôi mà đâm suốt thái dương huyệt của hai nàng.
Mũi tên độc này vốn thuộc loại "thấy máu đóng hầu" nghĩa là bắn trúng không kêu la gì được: một loại tiễn thường dùng vào việc ám sát.
Trúng mũi tên hai chị em Hàm Phương ngã quay xuống sàn lầu chết luôn, không kêu la được một tiếng.
Cố Thiếu Xuân đêm đó thấy lồng đèn liền chèo thuyền sang, nhưng chẳng thấy hai chị em Hàm Phương ra mở cửa.
Tứ bề vắng lặng.
Chàng cố ngồi đợi.
Nhưng đợi mãi tới sáng mai vẫn chẳng thấy người yêu ra mở cửa? Xuân lòng nghi hoặc, không muốn bỏ đi.
Trời sáng hẳn.
Con a đầu chạy lên lầu thấy hai chị em Hàm Phương đã chết cả, vội tri hô lên.
Bà Tôn nghe kêu giật mình nhảy lên lầu xông vào phòng con gái.
Bà ôm lấy thây con khóc rống lên, người như điên loạn.
Thiếu Xuân ngồi ngoài cửa, nghe tiếng khóc, biết có chuyện chẳng lành, chẳng quản nếp tẻ gì, tông cửa nhảy vào rồi cũng gục xuống thây hai