Lại nói, do phần lớn lực lượng tinh nhuệ của Hồng Y Phiên bị gã Đại Lạt ma phản nghịch dẫn hết vào Trung Nguyên, nên La Sa thành phòng thủ không hư, bị bọn Ngạo Thiên Đế Quân khống chế dễ dàng. Bạch Thiếu Huy đã chọn Đại Chiêu Tự làm nơi đóng hành doanh.
Sau đó, chàng cho treo bảng an dân, và hứa sẽ trọng thưởng cho ai tìm được hai vị Hoạt Phật mất tích bấy lâu nay. Thế là dân Tây Tạng không có thời gian để xúc việc Bạch Thiếu Huy chiếm thành, mà đổ xô nhau đi tìm kiếm Hoạt Phật. Chưa hẳn bọn họ đi tìm kiếm Hoạt Phật là vì tưởng thưởng, mà bởi Hoạt Phật còn là tín ngưỡng của dân Tây Tạng. Hoạt Phật mất tích bấy lâu, đã khiến lòng dân hoang mang vô cùng. Bạch Thiếu Huy cũng phái Ngạo Thiên Đế Quân và Bách Độc Chân Quân chia nhau dẫn người đi tìm kiếm.
Cuối cùng, mọi người tìm được hai vị Hoạt Phật đang bị giam lỏng trong mật thất ở Bố Đà La Cung. Tội phản nghịch của gã Đại Lạt ma tự xưng kia đã được lạc thật. Thế nhưng, khi bọn Ngạo Thiên Đế Quân đưa người đến, Bạch Thiếu Huy rất ngạc nhiên, bởi không chỉ có hai người như chàng tưởng, mà có đến mười người. Hai người vận sắc phục Lạt ma, đương nhiên là hai vị Hoạt Phật. Tám người còn lại vận y phục màu trắng, đều là những lão nhân tuổi quá lục, thất tuần, râu tóc bạc phơ, nhưng lại có da dẻ hồng hào như thanh niên trai tráng. Chỉ có điều lúc này sắc diện cả bọn đều có vẻ không được tốt, công lực đều bị cầm cố nên sức lực yếu ớt hơn cả người bình thường.
Hai vị Hoạt Phật vừa vào đến nơi, lập tức bước đến trước mặt Bạch Thiếu Huy chắp tay nói :
- Bọn bần tăng là Đạt Lai, Ban Thiền, xin đa tạ ân cứu mạng của Điện hạ.
Tám bạch y lão nhân còn lại cũng vội bước tới chắp tay nói :
- Bọn lão phu là Bát Đại giáo sĩ của Bà La Môn giáo ở Thiên Trúc, xin đa tạ ân cứu mạng của Điện hạ.
Bạch Thiếu Huy khẽ gật đầu, ra hiệu cho bọn họ ngồi xuống những chiếc bồ đoàn đặt quanh đó, rồi hỏi :
- Quả nhân xem khí sắc chư khanh không được tốt. Có vấn đề gì ư ?
Ban Thiền Hoạt Phật đứng dậy vòng tay nói :
- Hồi Điện hạ. Bọn bần tăng bị gã phản đồ kia hạ độc, công lực bị cầm cố hoàn toàn.
Bát Đại giáo sĩ cũng nói :
- Bọn lão phu cũng thế.
Bách Độc Chân Quân nói :
- Điện hạ. Chất độc mà bọn họ trúng phải rất kỳ lạ, nguyên liệu dùng toàn những thứ ở Tây Vực, thần nhất thời chưa thể tìm ra phương cứu chữa.
Bạch Thiếu Huy ngẫm nghĩ giây lát, rồi đứng dậy, đến bên hai vị Hoạt Phật và Bát Đại giáo sĩ, xem mạch chẩn đoán cho từng người. Chàng lại suy nghĩ giây lát, rồi nói :
- Chất độc này có thể nói là không có giải dược.
Ban Thiền Hoạt Phật thở dài nói :
- Gã phản đồ kia cũng nói thế đấy ạ. Theo gã nói thì chất độc này là kỳ môn độc dược, vô dược khả cứu. Gã không dám giết hại bọn bần tăng, nhưng cũng không muốn để lại hậu hoạn nên mới sử dụng loại độc dược này.
Bạch Thiếu Huy mỉm cười nói :
- Chư khanh cũng không nên quá thất vọng. Quả nhân chỉ nói không có giải dược, chứ không nói là không có cách giải.
Bách Độc Chân Quân hỏi :
- Điện hạ muốn nói là dĩ độc công độc ?
Bạch Thiếu Huy nói :
- Không thể dùng cách đó. Bọn họ trúng độc lâu ngày, cơ thể rất yếu, không thể chịu đựng thêm cường độc nào khác. Còn sử dụng nhược độc thì chẳng có mấy tác dụng.
Bách Độc Chân Quân nói :
- Thần cũng đã từng nghĩ đến phương pháp dĩ độc công độc, nhưng rồi lại nhận thấy không ổn.
Bạch Thiếu Huy nói :
- Trước tiên cần dụng vài phương bổ dược bồi bổ cơ thể, sau đó tập luyện một môn công phu của bản cung, đến khi thuần thục thì quả nhân có thể trợ giúp mọi người bức chất độc ra ngoài cơ thể.
Bọn Bát Đại giáo sĩ và hai vị Hoạt Phật nghe nói còn có thể cứu chữa, đều mừng rỡ đứng dậy hướng về Bạch Thiếu Huy cung kính chắp tay vái tạ, đồng thanh nói :
- Đa tạ Điện hạ đã cứu giúp.
Bạch Thiếu Huy khẽ gật đầu, nói :
- Chư khanh cần phải bế quan khoảng nửa năm. Quả nhân sẽ thân tự truyền công phu cho chư khanh.
Cả bọn vâng dạ, rồi cáo lui, đi lo liệu sắp xếp mọi việc trước khi bế quan tu luyện. Bạch Thiếu Huy cũng thảo vài phương bổ dược, giao cho hai vị Hoạt Phật để bọn họ cho người thu tập dược liệu.
Thế là từ đó, bọn Bạch Thiếu Huy tạm trú lại Tây Tạng. Bạch Thiếu Huy lo chữa trị cho hai vị Hoạt Phật và Bát Đại giáo sĩ. Ngạo Thiên Đế Quân và Bách Độc Chân Quân được giao cho việc huấn luyện tăng binh của Hoàng giáo. Sau cuộc nội loạn, tuy phần lớn tín đồ Hoàng giáo vẫn theo Hoạt Phật, nhưng số cao thủ trung thành không còn lại bao nhiêu. Hồng Y Phiên cũng đã danh tồn thật vong. Một phần theo gã phản đồ tác loạn, hiện đang kéo vào Trung Nguyên mưu đồ xưng bá võ lâm, một phần vẫn trung thành với Hoạt Phật thì đã thọ hại. Do vậy, bọn họ cần tổ chức lại Hồng Y Phiên. Tây Tạng tiếp giáp với các xứ Ba Tư, Thiên Trúc, nên cần có lực lượng tinh nhuệ để tự bảo vệ.
Trong thời gian bế quan, quan hệ giữa hai vị Hoạt Phật và Bát Đại giáo sĩ được cải thiện đáng kể. Có hiềm khích với Bát Đại giáo sĩ chính là gã phản đồ kia, còn hai vị Hoạt Phật cũng giống như bọn họ, đều là những người bị hại. Do đó, quan hệ giữa Hoàng giáo và Bà La Môn giáo cũng được cải thiện. Tử Ngọc Thần Chung, vật thờ phụng trên bàn thờ Phạm Thiên của Bà La Môn giáo cũng được hai vị Hoạt Phật trả lại cho Bát Đại giáo sĩ. Chiếc chuông này không hiểu vì lý do gì mà rơi vào tay gã phản đồ của Hoàng giáo. Bát Đại giáo sĩ hay tin, đến Tây Tạng liên hệ xin chuộc lại, nhưng rồi đã bị hạ độc, bắt giam. Nay được hoàn trả, cả bọn hoan hỷ vô cùng, hứa khi về đến Thiên Trúc sẽ dùng bảo vật tạ lễ.
Thời gian cứ thế trôi qua, với việc Hồng Y Phiên được tổ chức lại, tình hình Tây Tạng đã ổn định trở lại như trước khi có nội loạn. Chỉ cần đến khi hai vị Hoạt Phật và Bát Đại giáo sĩ bức độc thành công là bọn Bạch Thiếu Huy có thể khởi giá trở về Trung Nguyên.
Một hôm, Bạch Thiếu Huy đang dạy Tuấn nhi học đàn thì Ngạo Thiên Đế Quân và Bách Độc Chân Quân cùng đến bái kiến. Ngạo Thiên Đế Quân vừa vào đến nơi, lập tức hành lễ rồi nói ngay :
- Điện hạ. Trung Nguyên sắp có nội loạn rồi.
Bạch Thiếu Huy hỏi :
- Chu Nguyên Chương qua đời rồi ư ?
Ngạo Thiên Đế Quân nói :
- Vâng ạ. Chu Nguyên Chương qua đời hồi mấy tháng trước, sau khi Điện hạ ngự giá Tây tuần được ít lâu. Hoàng trưởng tôn là Chu Doãn Văn lên kế vị, xưng hiệu là Kiến Văn. Sau khi lên ngôi, gã ta đã tiến hành triệt phiên, thu binh quyền của các phiên vương, thậm chí sát phiên.
Chu Nguyên Chương lẽ ra qua đời vào ngày 24 tháng 6 năm 1398 (âm lịch), nhưng vì có Huyền Đô Quan chủ thượng kinh cứu trị, nên sống thêm được gần một năm, đến cuối tháng 5 năm sau mới qua đời. Người kế vị là Hoàng trưởng tôn Chu Doãn Văn, được sự bày mưu tính kế của hai vị đại thần là Tề Thái và Hoàng Tử Trừng, đã tiến hành triệt phiên để củng cố quyền lực triều đình trung ương. Bạch Thiếu Huy không ngờ tân đế mới lên ngôi mà đã hành động nông nổi như thế, ngạc nhiên hỏi :
- Tình hình thế nào ?
Ngạo Thiên Đế Quân nói :
- Hồi Điện hạ. Tương vương Bách bị bức tự thiêu chết, còn Tề vương Phù, Đại vương Quế, Mân vương Biền lần lượt bị giáng làm thứ nhân. Duy chỉ có Yên vương Lệ là chưa bị động đến, do thế lực của gã này rất lớn mạnh. Tuy nhiên, điều này cũng đã làm cho Yên vương Lệ lo sợ cho số phận của mình nên đã quyết định áp dụng sách lược tiên phát chế nhân. Gã ta được nhà sư Đạo Diễn làm quân sư, đang chuẩn bị khởi binh.
Bạch Thiếu Huy ngẫm nghĩ giây lát, rồi mỉm cười hỏi :
- Nhị vị khanh gia thấy thế nào ?
Ngạo Thiên Đế Quân nói :
- Bọn chúng hành động nông nổi như thế, chỉ là tự tìm tử lộ.
Bách Độc Chân Quân hỏi :
- Lão nói ai ?
Ngạo Thiên Đế Quân nói :
- Cả Chu Doãn Văn và Chu Lệ.
Tuấn nhi nghe nói ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao cả hai đều là tự tìm tử lộ ạ ? Lẽ ra chỉ một kẻ tự tìm tử lộ, còn một kẻ chiến thắng sẽ được làm vua chứ. Thắng làm vua thua làm giặc mà.
Ngạo Thiên Đế Quân nói :
- Đó là lúc bình thường thôi. Còn hiện giờ Trung Nguyên lưỡng kinh thập tam tỉnh, Minh triều quản lý được mấy nơi kia chứ ? Sơn Đông Lương gia, Hà Nam Dương gia, Thiểm Tây Kim gia hợp thành ‘Tam trấn liên minh’. Hồ Quảng chịu ảnh hưởng của Bài giáo. Tứ Xuyên thì có Đường Tài Thần và Đường môn khống chế. Tây nam tam tỉnh là Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu chịu ảnh hưởng của Miêu Chúa. Vùng duyên hải là địa bàn của Bạch Giao Bang. Ở Nam trực lệ thì vùng Phụng Dương do Hoàng Thanh Chương khống chế, chịu ảnh hưởng của Huyền Đô Quan. Tóm lại, Minh triều chỉ quản lý được Bắc trực lệ, Sơn Tây, Giang Tây, và một phần Nam trực lệ. Hiện tại thì Bắc trực lệ và Sơn Tây thuộc địa bàn của Chu Lệ, còn Nam trực lệ và Giang Tây thuộc địa bàn của Chu Doãn Văn. Về thế lực thì phương nam có vẻ mạnh hơn, và tài lực thì phương nam cũng chiếm ưu thế.
Minh triều kể từ Hồng Vũ tam niên (1370) bắt đầu chia tỉnh và thiết lập đô vệ. Cả nước chia làm lưỡng kinh thập tam tỉnh gồm : Bắc trực lệ (Hà Bắc, kể cả Bắc Kinh), Nam trực lệ (Giang Tô, An Huy, kể cả Nam Kinh), Thiểm Tây (gồm cả Thiểm Tây, Cam Túc, Thanh Hải, Ninh Hạ), Sơn Tây, Sơn Đông, Hà Nam, Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Quảng (Hồ Nam, Hồ Bắc), Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Địa giới các tỉnh này không giống thời hiện đại, có nhiều chỗ rất kỳ lạ; chẳng hạn như Sơn Đông kiêm quản cả Liêu Đông, dù hai xứ này cách nhau qua Bột hải; hoặc như Thiểm Tây quản lý