“Trường thành ngăn ải hoài nuôi chí,
Nghìn năm ai dễ sánh vai nào.”
Tây An Thành.
Tây An nguyên là cố đô của nhiều triều đại. Bắt đầu từ thời Tây Chu là đất Hạo Kinh. Các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên gọi là Trường An. Đến thời Minh cải thành Tây An. Đây là đất cố đô, lại là điểm phía đông của “con đường tơ lụa” nổi tiếng, nên rất phồn hoa đô hội.
Nói về “con đường tơ lụa”, đó là một con đường huyền thoại nối liền đất Trung Hoa rộng lớn với vùng tây phương kỳ bí, nó gắn liền với hàng nghìn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà”, “con đường tơ lụa” còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng. Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc La Mã thích tơ lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân tơ lụa và đổi chỗ tơ lụa đó bằng vàng với trọng lượng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra thời ấy chỉ thích diện y phục bằng tơ lụa mà thôi. Và thành Constantinople là điểm phía tây của “con đường tơ lụa”, nên cũng rất phồn vinh thịnh vượng.
Tây An là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa để chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn qua “con đường tơ lụa”. Lạc đà là phương tiện vận chuyển chủ yếu trên con đường thương mại này. Trải qua hơn nghìn năm, “con đường tơ lụa” vẫn được xem là một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới, và nó còn được xem như cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây.
Sau sự sụp đổ của nhà Nguyên, “con đường tơ lụa” phần nào đã bị đình trệ. Bạch Thiếu Huy ở lại Tây An chỉ đạo việc khôi phục con đường có thể xưng là “hoàng kim thương lộ” này. Mỗi chuyến đi thành công, có thể mang lại lợi nhuận gấp trăm lần, là một nguồn thu nhập rất đáng kể mà Bạch Thiếu Huy không thể bỏ qua.
Hiện tại, thông qua Hoạt Tài Thần Gia Cát Ngọc, cùng với Bạch Giao Bang, Bài Giáo và Miêu Cương, Bạch Thiếu Huy đã nắm được nguồn cung cấp thương phẩm chủ yếu cho “con đường tơ lụa” là tơ lụa ở Giang Chiết, gốm sứ ở Giang Tây, trà diệp ở Hồ Quảng và Vân Quý. Còn về bản thân “con đường tơ lụa”, nửa phía đông cũng nằm trong phạm vi thế lực của Bạch Thiếu Huy. Từ Tây An đến Lan Châu là địa bàn của Kim Thượng Quan, tiền Thiểm Tây Tổng đốc (đã truyền vị lại cho con là Kim Vân Phi). Qua khỏi Lan Châu là đến địa bàn của Thiên Hỏa giáo. Hiện tại, Thiên Hỏa giáo chỉ mới kiểm soát được một phần của Tây Vực, phía đông kiểm soát Tây Ngoại Mông, phía đông nam giáp Lan Châu, phía nam giáp Tây Tạng, và phía tây đến bắc Thiên Trúc. Bạch Thiếu Huy quyết định tập trung toàn lực vũ trang cho Thiên Hỏa giáo, để mở mang địa bàn đến tận biên giới Ba Tư. Còn từ Ba Tư về phía tây, sau đó sẽ tính tiếp.
Đến khi biểu chương của Lữ Gia gửi về, Bạch Thiếu Huy biết được tình hình các xứ Ba Tư, nên việc vũ trang cho Thiên Hỏa giáo càng được tăng cường hơn nữa. Hãn quốc Sát Hợp Đài (Chagotai Khanate) là một cường quốc phương tây. Thiếp Mộc Nhi Hãn (Timur Khan) đã từng đánh bại quân đội Ottoman, bắt sống Hoàng đế nước đó (thời Trung Cổ, quân đội Ottoman là hiểm họa của các nước Âu Châu, nhiệm vụ chủ yếu của Hoàng đế Thần Thánh là đoàn kết các nước Âu châu chống lại sự xâm lấn của quân đội Ottoman). Lực lượng của Thiên Hỏa giáo cần phải được tăng cường để có thể uy hiếp Hãn quốc Sát Hợp Đài và Thiếp Mộc Nhi Hãn.
Bạch Thiếu Huy đã huy động ba nghìn cao thủ nhất lưu cử đến hỗ trợ Thiên Hỏa giáo. Tam đại Tài Thần là Kim Tài Thần ở Thiểm Tây, Đường Tài Thần ở Tứ Xuyên và Gia Cát Tài Thần ở Giang Nam cũng vận lương hướng đến hỗ trợ. Thiên Hỏa giáo chủ Giang Trọng Hùng nhờ đó đã chinh tập được đại lượng binh mã, gồm 10 vạn kỵ binh Mông Cổ, 10 vạn kỵ binh Hồi tộc, 10 vạn kỵ binh Duy Ngô Nhĩ, 5 vạn kỵ binh Hán tộc và kỵ binh Cáp Tát Khắc, Tháp Cát Khắc, Kha Nhĩ Khắc Tư, Táp Lạp, Ô Tư Biệt Khắc mỗi tộc 1 vạn. Tổng số là 40 vạn. Đó là quân thường trực, còn khi cần thì có thể động viên bách vạn kỵ binh, bởi vì trừ Hán tộc, các dân tộc kia đều quen sống trên lưng ngựa, toàn dân giai binh.
Sau đó, theo lệnh của Bạch Thiếu Huy, Giang Trọng Hùng đã cử đại quân tây chinh. Cuộc chinh phạt kéo dài hơn một năm, diệt quốc vô số (toàn là tiểu quốc ở Tây Vực). Đại quân tràn vào Transoxiana, bao vây Samarkand, áp sát biên giới Ba Tư. Thiếp Mộc Nhi Hãn vội vã điều quân đội từ phía tây đến tăng viện. Đã có hơn 50 vạn quân được huy động đến cứu viện Samarkand, nhưng trong số đó chỉ có 12 vạn quân tinh nhuệ (còn lại sau trận Angora đánh bại quân Ottoman), với 1 vạn rưỡi kỵ binh và 10 vạn rưỡi bộ binh. Còn lại 40 vạn đều là tân binh mới chinh tập, thiếu huấn luyện. Kết quả, quân ngụy – Mông Cổ của Thiếp Mộc Nhi Hãn (ông ta tuy là con rể của gia đình Thành Cát Tư Hãn, làm Hãn của Hãn quốc Sát Hợp Đài, nhưng trong quân đội chẳng có mấy người Mông Cổ và đa số là bộ binh) đã phải bại trận trước quân Mông Cổ chân chính. Lấy 40 vạn kỵ binh đánh nhau với 50 vạn bộ binh, trừ khi tướng lĩnh quá tệ, nếu không khó mà thua được.
Sau trận Samarkand, Hãn quốc Sát Hợp Đài mất vùng đất Transoxiana, đành phải lui về giữ đất Ba Tư. Thiếp Mộc Nhi Hãn sai sứ sang xin triều cống và cầu hòa. Dù gì thì quân đội Thiên Hỏa giáo cũng đến từ thảo nguyên Mông Cổ, là quân Mông Cổ chân chính. Hãn quốc Sát Hợp Đài trước giờ trên danh nghĩa vẫn là chư hầu của người Mông Cổ.
Thế là “con đường tơ lụa” đã được thông đến bán đảo Tiểu Á. Bạch Thiếu Huy hài lòng cho đình chiến sự. Địa bàn của Thiên Hỏa giáo được mở rộng đến tận biên giới Ba Tư. Thiên Hỏa giáo kiểm soát “hoàng kim thương lộ” là “con đường tơ lụa”, cùng với Bạch Giao Bang kiểm soát “con đường tơ lụa trên biển”, đều trở thành những thế lực hùng mạnh nhất trong số Bát Phương Bá chủ. Trường Thanh Cung kiến lập,