Thả Mạt thành vốn dĩ là một tiểu thành, từ năm Võ Tắc Thiên Trường Thọ nguyên niên, Đại tướng Đường triều Vương Hiếu Kiệt sau khi thu hồi được An Tây, nhà Đường bèn lũ lượt tiến hành việc xây dựng lại Thả Mạt thành. Mười mấy năm sau, Thả Mạc thành đã trở thành một tòa thành cỡ trung trì chu vi gần hai mươi dặm, thành cao năm trượng, Đặc biệt là ba năm trước sau chiến dịch Tát Bì Trạch, Lý Khánh An một lần nữa hạ lệnh tiến hàng tăng cường gia cố tường thành Thả Mạt.
Thả Mạt thành của lúc này đã trở thành một trong những hùng thành của An Tây, cao đến bày trượng, thành rộng năm trượng, có thể đi song hành ba chiếc xe ngựa, đặc biệt là sông hộ thành ở ngoài thành, nối thông với sông Thả Mạt, rộng ba trượng, sâu hai trượng, hai tòa thành môn nam bắc treo lên chiếc cầu treo lơ lửng, đã trở thành một tòa thành trì dễ thú khó công, Quân Đường lúc này đã ý thức được quân tướng Thổ Phồn phát động tiến công đối với An Tây, bọn họ đã từ bó phòng thù của những tiểu thành là Lan thành, Ni Nhưỡng thành, Nỗ Chi thành, Điên Hợp thành, Thất Truân thành, đem toàn bộ binh lực đều tập trung đến Thả Mạt thành, trong thành Thả Mạt lúc này đã có hơn bảy ngàn quân Đường, đã tồn trữ một lượng lớn các quân giới lương thực, đủ để giữ thành một năm.
Khi quân Đường của Tát Bì thành rút trở về Thả Mạt thành không bao lâu, thám báo quân Đường bèn đã truyền đến tin tức, ba vạn đại quân của quân Thổ Phồn đã đến ngoài xa hai mươi dặm.
“Tang! Tang! Tang’ Tiếng cánh báo inh tai vang lên khắp toàn thành, quân Đường từ bốn phía đăng lên tường thành, ở bốn góc của tường thành, quân Đường đã dựng lên bốn mươi chiếc máy ném đá hạng nặng, lại phát động hơn bốn ngàn nam tử thành Thả Mạt, cho bọn họ mặc lên áo giáp và quân phục của quân Đường, cũng lao vào tham dự trong việc phòng ngự của thành trì, còn có mấy nghìn phụ nữ trẻ tuổi, bọn họ sẽ đưa nước đưa cơm cho quân dân trên thành, Đây là một trận chiến dịch vô cùng quan trọng, nếu Thả Mạt thành bị chiếm đóng, vậy lãnh thổ An Tây phía nam sa mạc Đồ Luân sẽ toàn bộ bị người Thổ Phồn chiếm lĩnh.
Một khắc giờ sau, bóng hình đại quân Thổ Phồn đã xuất hiện tại cuối ốc đảo, Ba vạn quân Thổ Phồn được chia làm ba phương trận, đang từ từ tiến quân đến thành Thả Mạt, Cách thành ba dặm đại quân Thổ Phồn đã bắt đầu cắm trại, rất rõ ràng là chúng đang chuẩn bị cho trận chiến công thành Thả Mạt.
Trận chiến tấn công thành vốn dĩ không phải sờ trường của chúng, bọn chúng không có vũ khí tinh xảo để công thành, nhưng mấy năm nay quân Thổ Phồn từ thợ thủ công người Hán bắt cóc được đã học được không ít kỹ thuật tiên tiến, bọn chúng cũng có thể chế tạo được một số loại vũ khí công thành cỡ lớn.
Lần này Thổ Phồn từ Lhasa vượt đường xá xa xôi đến đây, phải vượt qua nhiều dãy núi cao khiến chúng không thế mang theo các loại vũ khí hạng nặng như máy ném đá, chùy công thành.., chỉ có thể mang theo vài trăm chiến thang mây.
Dù cho Thổ Phồn không muốn công thành, nhưng Thả Mạt thành lại là chướng ngại chúng không thể vượt qua. Chúng không thể để cho trọng binh chủ lực có thể ở ngay sau lưng minh. Vậy chẳng khác gì là mối nguy hiếp lớn cho chu cấp hậu cần của mình, và cũng sẽ cắt đứt mọi đường lui của chúng.
Quân Thổ Phồn đã bắt đầu cặm cụi dựng lều trại ngoài thành ba dặm, và lắp đặt thang mây. Còn chủ tướng Thượng Gia Tố của Thổ Phồn dưới sự hộ tống của vài trăm tinh binh Thổ Phồn đã tiến sát thành trì để thám thính tình hình phòng ngự thành Thả Mạt, Thượng Gia Tố là một lão tướng quân kinh nghiệm phong phú, Thả Mạt thành được phòng ngự nghiêm ngặt khiến hắn không khỏi chau mày. Muốn công hạ thành Thả Mạt trước tiên phải vượt qua sông hộ thành, ngoài ra tường thành cao tận bày trượng, nếu muốn leo lên e rằng không dễ dàng, nhưng những điều này quân Thổ Phồn đều có thể khắc phục, quan trọng là biết người biết ta, rốt cuộc quân Đường có bao nhiêu binh lực trong thành Thả Mạt?
Hắn nheo mất lại nhìn chằm chằm vào quân Đường trên thành đầu. Vị trí của hắn nằm ở thành nam, trên thành đầu đứng đầy binh sĩ, chí ít có bốn năm ngàn người, Vừa rồi hắn cũng nhìn thấy chừng vài ngàn người trên thành đông, Nghĩ thế không khỏi khiến Thượng Gia Tố lạnh người, vì nếu tính như thế quân Đường trong thành chắc có hơn vạn binh sĩ.
Với tỉ lệ 3:1 khi công thành, như thế sẽ rất bất lợi cho quân Thổ Phồn, Thượng Gia Tố thầm nguyền rủa Thượng Tức Đông Tán, nếu cho bảy vạn người đến công thành Thả Mạt, tỉ lệ 7: 1 khi công thành, đoạt thành Thả Mạt cũng không thành vấn đề gì, Nhưng giờ Thượng Tức Đông Tán bản thân đi đánh Thổ Hỏa La, còn hắn thì phải đến gặm khúc xương khó xơi An Tây này, Hắn chỉ có ba vạn người, dù hắn bất chấp hi sinh đoạt hạ thành Thả Mạt đi chăng nữa thì chí ít hắn cũng phải tổn thất hơn nữa, vậy đằng sau nữa thì sao? Hắn lấy gì đi tấn công Vu Điền, lấy gì đi đánh Sơ Lặc?
Thượng Gia Tố trầm tư một hồi, nếu hắn không thể đánh một trận ra hồn thì Thượng Tức Đông Tán tuyệt không nhận lời cho gia tăng quân số, Nghĩ thế hắn bèn cho quay đầu ngựa quay trở về đại doanh của mình.
Trên thành đầu, Hạ Lâu Dư Nhuận cũng đã chủ ý được động tĩnh của quân Thổ Phồn, hắn lo lắng nhất chính là ba vạn quân Thổ Phồn này chẳng qua là tiền quân, mà chủ lực thực sự còn ở phía sau, Đây là đặc điểm đánh trận của quân Thổ Phồn, chúng thích phái một phần tiền quân tiến công ở phía trước, sau đó chủ lực sẽ ở sau, Nếu ba vạn người chỉ là tiền, vậy quân Thổ Phồn phía sau chí ít có bày tám vạn.
Chỉ dựa vào mỗi Thả Mạt thành và bày ngàn binh mã của hắn căn bàn không đỡ nổi tấn công của mười vạn đại quân Thổ Phồn, nếu thật sự bị quân Thổ Phồn công hạ Thả Mạt thành, vậy An Tây chắc chắn sẽ gặp nguy hiểm, Hạ Lâu Dư Nhuận vì thế mà nơm nớp lo sợ mấy hôm nay, và hắn cũng đã để các châu Hà Tây gửi thư bồ câu đi, Hắn hi vọng Lý Khánh An có thể nhận được cấp báo của hắn, và đến chi viện thành Thả Mạt càng sớm càng tốt.
Nhưng đã mấy ngày qua đi, xích hầu quân Đường vẫn chưa nhận được bất kỳ thông tin gì của hậu quân chủ lực Thổ Phồn, từ đầu chí cuối đều chỉ có đội quân ba vạn người này, Điều này quả thực lại giúp Hạ Lâu Dư Nhuận nhen nhóm hi vọng trong lòng. Nếu như chỉ có mỗi ba vạn người, vậy hắn có sức áữ được thành Thả Mạt không bị mất.
Lúc này, có một chấm đen nhỏ xuất hiện cuối chân trời trên không trung thành Thả Mạt, Hạ Lâu Dư Nhuận chỉ một chốc đã nhìn thấy chấm đen đó, Trong lòng hắn mừng rỡ, đây chắc chắn là bồ câu mang thư hồi đáp trở về.
“Hạ Lâu tướng quân!”
Một binh sĩ giơ cao thư chạy như bay vào, “Đây là thư từ Túc Châu, đại tướng quân có tin tức truyền đến.”
“Hãy mau đưa thư cho ta!”
Hạ Lâu Dư Nhuận đi bước lại lên phía trước nhân ngay lá thư trong tay binh sĩ, Đấy là ống thư bổ câu dài nhỏ màu đỏ, biểu trưng của tình huống khẩn cấp, Trên đầu ống thư có một vòng màu hoàng kim, đây là dấu ấn của An Tây tiết độ sứ Lý Khánh An, cho nên vừa rồi binh sĩ nhìn cái đã nhận ra ngay đây là thư của Lý Khánh An gửi đến. Ngoài ra thường phía dưới ống thư đều có khắc địa điểm gửi, trên ống thư này có khắc hai chữ “Túc Châu”.
Kỳ thực không cần xem Hạ Lâu Dư Nhuận cũng đã đoán được quân tình đại khái, Lý Khánh An đã đến Túc Châu, cách đây gần cả ngàn dặm, nhưng Hạ Lâu Dư Nhuận vẫn mở thư ra đọc ngay, chỉ thấy trong đấy chỉ có vỏn vẹn một câu do Lý Khánh An thân bút viết: “Thủ thành Thả Mạt trong bốn ngày, thăng quan một cấp, tam quân trọng thưởng, thủ không được bốn ngày, trảm!”
Chỉ vỏn vẹn một câu mà Hạ Lâu Dư Nhuận nghe nhiệt huyết bừng bừng, Lý Khánh An cho hắn thời hạn bốn ngày, bốn ngày, dù có phải liều chết hắn cũng phải cố thủ!
Ngay tại lúc này, tiếng trống đùng đùng trong đại doanh Thổ Phồn đã vang đến, chỉ thấy vài ngàn quân Thổ Phồn đang xông ra khỏi doanh trại, Bọn họ tay cầm kiếm cầm cung, và cả giáo trường sắc bén, giơ cao thang mây và ván gỗ dài xông về phía thành như sóng nước vỡ bờ. Tiếng trống báo trận của quân Đường cũng kịp thời được vang lên, bốn ngàn quân Đường bắt đầu bày binh bố trận trên thành đầu, nghiêm chinh nghênh chiến. Trận chiến thám thính đầu tiên của quân Thổ Phồn sau khi đến thành Thả Mạt được hai canh giờ đã chính thức được vén màn.
Cách Tát Bì Trạch một trăm tám mươi dặm về phía nam, sắc trời vẫn chưa tối, trên khoảng đất trống giữa rừng thông, đội chính Lâm Mục đương dẫn mười lăm tên lính tuần tra quân Đường đang vây quanh một gò đất, dưới gò đất này đã chôn vùi xác của người huynh đệ đã hi sinh, Đây đã là binh sĩ quân Đường thứ sáu trong đội của họ hi sinh.
Tối hôm trước, hắn không may gặp phải bầy sói trên cao nguyên, sau trận chiến chống đỡ đẫm máu, bầy sói để lại hơn trăm xác đồng loại bỏ chạy, nhưng đội tuần tra cũng phải trả giá quá đắt, bốn binh sĩ bị cắn chết, hai binh sĩ trọng thương; kết quả rồi cũng không cầm cự nổi qua đêm ấy, lần lượt chết đi.
Theo quy củ của quân Đường, binh sĩ trận vong đều sẽ đem xác đi thiêu, mang tro cốt về cho người nhà họ, nhưng do đại quân Thổ Phồn vừa mới đi qua, rất có khả năng chúng vẫn còn ở phụ cận, nếu đem thiêu xác sẽ tạo khói đen, ngoài mấy chục dặm vẫn có thể nhìn thấy, nên đành phải đem chôn xác họ tại đây.
“Thấp nhang đi!” Lâm Mục trầm giọng nói.
Hắn cắm một nhánh cây vào mộ phần, tiếp theo sau đó các binh sĩ khác cũng cắm nhánh cây gỗ vào mộ, đây là cách cầu nguyện cho chiến hữu đặc biệt của họ.
Mười sáu quân sĩ Đại Đường cùng vây quần lại lẳng lặng nhìn sáu chiến hữu sẽ mãi mãi ngủ lại trong khu rừng thông cao nguyên, những nấm mồ này chính là chốn về cuối cùng của