Tại quảng trường của gia đình kỵ sĩ Đái Mặc Tạp.
- Pháp Phí! Tới đây đi. Để cho ta thấy thực lực của ngươi. - Một người đàn ông nổi giận gầm lên một tiếng. Thanh trường kiếm trong tay y tỏa ra ánh sáng lạnh lẽo.
Tay phải Pháp Phí cầm kiếm, ánh mắt ngưng trọng vung kiếm lên đón tiếp.
Keng! Hai thanh trường kiếm va vào nhau phát ra tiếng động.
Cả hai người liên tục tấn công. Sau một lát, Pháp Phí bắt đầu rơi vào thế yếu, nhưng gã vẫn cố gắng, chưa chịu từ bỏ.
Còn Âu Văn Na thì đứng bên quan sát.
Phía trên bậc thang, La Mông và kỵ sĩ Đái Mặc Tạp đang quan sát. Lúc này, ánh mắt của kỵ sĩ sâu thẳm nhìn trận chiến đấu bên dưới mà nói về lịch sử của kỵ sĩ:
- Tiên sinh La Mông! Khôi giáp của kỵ sĩ chính quy có mũ giáp, giáp ngực, bảo vệ tay và đùi. Nó có thể phòng ngự được cung nỏ. Bởi vậy mà sức nặng có bộ giáp cũng kinh người, phải tới hai mươi lăm cân.
- Với sức nặng như vậy đòi hỏi yêu cầu rất lớn. Vì vậy mà gia tộc kỵ sĩ mới cần tới loại ngựa quý, hơn nữa chú trọng tới huyết thống của ngựa. Chỉ có loại thần mã mới có thể chịu được sức nặng của kỵ sĩ.
La Mông lắng nghe rồi gật đầu.
- Nhưng xét cho cùng vẫn là thực lực bản thân của kỵ sĩ. Nếu không đạt tới cấp năm trở lên thì nặng quá cũng làm cho chiến sĩ mất đi sức chiến đấu. Nhiều lần từng có những người chưa tới cấp năm, mặc áo giáp xuất chiến, kết quả bị người khác lợi dụng đánh ngã xuống ngựa rồi sau đó chém chết.
- Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp! Đạt tới cấp năm thì như thế nào? Đấu khí là cái gì? - La Mông quay sang hỏi. Hắn hơi nhìn thoáng qua Âu Văn Na nhưng thấy nàng đang chăm chú nhìn trận chiến.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói với giọng tán dương:
- Đấu khí là sự ban thưởng của thần. Nếu như nói chiến sĩ cấp một và cấp hai chỉ dựa vào huấn luyện thân thể vào kỹ xảo. Chiến sĩ cấp ba và cấp bốn phải trải qua thời gian huấn luyện dài để cho cơ thể của họ tích trữ được lực lượng. Nhưng lực lượng đó còn phụ thuộc vào con người. Chỉ có người nào thành tín nhất mới có thể châm ngòi cho lực lượng trong cơ thể khiến cho chúng thăng hoa, tạo thành đấu khí. Một khi có được đấu khí, cho dù áo giáp nặng tới hai mươi lăm cân cũng không còn là gánh nặng. Nhờ đó mà chiến sĩ mới có thể sử dụng chúng được một cách tự nhiên và phát huy được uy lực thực sự. Hai trăm năm trước, nước ta từng dẫn ba tăm bảy mươi kỵ sĩ mặc trọng giáp, xung phong đánh tan vạn tên địch. Đây đúng là một chiến thắng lừng lẫy.
- Phải có tín ngưỡng? - La Mông líu lưỡi. Hắn gần như hết hy vọng mà hỏi:
- Vậy không có biện pháp nào để có được hay sao?
- Có thì có nhưng bản chất hoàn toàn chênh lệch. Đấu khí là niềm tin thành kính và sự thăng hoa của lực lượng. Điều ấy vốn là bí mật. Nhưng hai trăm năm trước, sau chiến tranh đuổi ma thứ mười người đứng đầu giáo hội đã công bố ọi người. Có điều, cho dừ như vậy. Thì có thể đạt tới cấp năm cũng là một con số ít. - Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp nói một cách cảm thán. Đột nhiên, lão mỉm cười:
- A...dường như là đã phân thắng bại. Có điều người đội trưởng của ngươi cũng đầy đủ trình độ của chiến sĩ cấp ba. Ta có thể cảm nhận được trong cơ thể y đã bắt đầu tích lũy sức mạnh...
Trên quảng trường, Pháp Phí liên tục lùi về phía sau, hiển nhiên là đã hết sức.
Hai người thu kiếm, quay lên trên bậc thang rồi thi lễ.
Lần này La Mông tới đây chẳng những là để xin lỗi kỵ sĩ Đái Mặc Tạp chuyện lần trước mà còn đưa Pháp Phí tới để thỉnh giáo kỹ năng chiến đấu với gia định kỵ sĩ. Còn Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp cũng rất khẳng khái.
Nhưng vừa vào đến cửa, La Mông hơi nhức đầu khi nhìn thấy một vị phu nhân.
Chồng của phu nhân Bội Lý là một kỵ sĩ thế tập, cũng là một trong năm kỵ sĩ ở trong lãnh địa. Y cũng có một trang viên ở trong thành. Nhưng hai năm trước, ông đã chết, để lại lãnh địa và số lượng tài sản lớn cho con mình.
Nhưng số di sản đó thì trước khi đứa con được mười tám tuổi sẽ có người giám hộ trông coi. Mà theo lẽ thường thì người đó sẽ là phu nhân Bội Lý.
Nhìn thấy phu nhân như vậy, La Mông chỉ đành mỉm cười.
Phu nhân Bội Lý khoảng chừng ba mươi tuổi, dáng người cao gầy, khuôn mặt thanh tú xinh xắn. Nàng nhìn La Mông từ trên xuống dưới rồi mỉm cười:
- A! La Mông phải không? Dường như ta đã nghe người ta nói về cậu. Ừm! Hình như là thiên tài Đức Lỗ Y, mới mười sáu tuổi đã đạt tới cấp ba. Nhưng nghe nói rằng ngươi xuất thân bình dân?
Câu hỏi này có chút không khách khí. Nhưng La Mông vẫn trả lời ngay:
- Đúng vậy.
- Chẳng trách mà phong thái hành động của ngươi đều lộ vẻ quê mùa. Nếu như không được học tập nghi lễ cùng với dáng đi thì sau này ngươi rất khó bước chân vào xã hội thượng lưu. Đặc biệt là lần đầu tiên bước vào, một khi ngươi để cho người ta có ấn tương không tốt sẽ mất rất nhiều thứ.
La Mông có chút xấu hổ.
Kỵ sĩ Đái Mặc Tạp liền cười nói:
- Ái chà! Phu nhân Bội Lý! Bây giờ chỗ này cũng không phải là trong buổi nghi lễn. Tới đây đi. Hôm nay sao quý bà lại rảnh rỗi tới đây thế này?
Phu nhân Bội Lý cười cười:
- Ta phải dạy cho con gái của nhà Đức Mạn. Xong rồi nên ta tới đây.
La Mông vội vàng lui lại phía sau hơi xa một chút rồi ngồi xuống ghế sa lông. Âu Văn Na ngồi xuống bên cạnh hắn rồi nói:
- La Mông! Cô ấy là tín đồ của nữ thần Y Ni Ti, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Là một người chuyên về nghi lễ trong thành. Tất cả những nhà quý tộc trong thành, thậm chí là ở gần cũng đều muốn mời cô ấy đến để dạy.
Hóa ra đây là bệnh nghề nghiệp. La Mông bừng tỉnh, nhe răng cười:
- Vừa rồi đúng là khiến cho người ta xấu hổ.
- Điều đó cũng đúng. Đối với đàn ông mà nói thì việc học nghi lễ dù sao cũng có hạn. Bởi vì đàn ông lấy sức mạnh và tri thức làm chính. Nhưng đối với con gái thì nghi lễ, bước đi, ánh mắt, cử chỉ, cánh