Đây nói về Lục-Phỉ-Thanh từ khi đưa bọn Văn-Thái-Lai ra khỏi An-Viễn Khách-Sạn thì một người một ngựa tung gió, đạp tuyết, xung sương mà nhắm hướng Tây đi thẳng tới. Khi qua khỏi ngọn núi Tu-Di thì trời vừa đúng ngọ. Núi Tu-Di có một cái hang lớn, lại dài và sâu thăm thẳm chẳng khác gì một cái hang thuồng luồng tối đen và lạnh buốt. Nơi đây là sào huyệt của độc xà và mãnh hổ. Phàm người đi qua núi đều phải đi ngang qua cửa hang này. Vì đó là con đường ⬘độc đạo⬙ duy nhất.
Từ trước đến nay, đã không biết bao nhiêu người đem thân nạp mạng cho độc xà ác thú tại nơi đây mà quan quân vẫn không làm cách nào bảo đảm được an ninh cho khách lữ hành lui tới.
Theo những lời đồn đãi, có nhiều người bị cọp ăn thịt hóa thành ⬘ma trành⬙ (#1) lộng hành, nhất là vào giờ mặt trời đứng bóng thì lại cành linh thiêng ghê gớm, ai cũng phải khiếp sợ. Vì vậy, ở ngay trước miệng cửa hang, một cây cổ thụ ⬘táo lão⬙, thân cây có đến mấy người ôm, cành lá xum xuê, dân địa phương có lập một cái miếu thờ thần Hắc Hổ, tạc hình tượng một con cọp đen trông như sống để khách qua núi cúng vái, cầu cho được toàn sinh mạng. Trước sân miếu lại đáp hình những con ma trành đủ hạng lớn, bé, già, trẻ, nam, nữ, nhảu múa ca xang diễn lại cái cảnh dưới ánh trăng khuya, ma trành làm trò vui cho thần hổ tiêu khiển.
Chưa biết là miễu Thần Hổ có linh ứng hay không. Chỉ cần thấy cái cảnh ghê rợn của miễu và hình tượng quái gở của bầy ma trành, khách qua đường yếu bóng vía nhìn vào cũng đủ ngã xỉu chết giấc.
Theo dân địa phương và những nhóm hắc đạo giang hồ kể lại thì trong hang có vô số những mãnh hổ cùng với mãng xà. Nhưng chúa tể của chúng là một con hổ đen ba chân to như con bò mộng, đôi mắt sáng như đồng linh, miệng đỏ như chậu máu, có tiếng cà-um (#2) vang dội xa đến mấy dặm đường.
Con hắc hổ này sống đã lâu, vì ăn thịt người quá nhiều nên đã biến thành tinh. Nó hóa ra được hình người, nói được tiếng người, hành động như người, lại đủ cả mưu mô xảo quyệt gạt người đi đường mà nhai sống. Nó có linh tính đến nỗi nghe xa được, đoán trước được nên binh mã của triều-đình, tên đạn, bẫy lưới của của các tay thiện xạ vẫn không làm gì được nó.
Chỉ có một lần, cách đây không bao lâu, nó bị hiệp-sĩ Viên-Sĩ-Tiêu, bẻ gãy hết một chân nên chỉ còn lại ba. Nhưng từ đó, con hổ tinh này lại càng hung hăng lên gấp trăm lần. Hễ ai đi ngang qua miệng hang là nạp mạng cho nó chứ đừng mong mà cầu khẩn hay van xin như trước nữa. Mà nó thù nhất là những khách giang hồ mang võ công trác tuyệt. Hợp sức với con hắc hổ này là con đại mãng xà vương, chúa tể các loài rắn rết sống trong hang này. Nói chung, cái trở ngại cho khách lữ hành qua núi Tu-Di là hang Thần Hổ này. Đừng nói là khách thương tầm thường, dầu là những cao thủ võ-lâm khi phải đi ngang chốn này còn phải lo lắng e ngại.
Mỗi lần muốn qua miệng hang Thần Hổ, khách lữ hành phải hợp đoàn đến vài ba trăm người. Phụ-nữ, lão, ấu, thì đi giữa, còn những trai tráng mạnh khỏe có sức lực và võ nghệ đều thủ sẵn khí giới đi chung quanh, tiền phong lẫn hậu tập. Dầu vậy, cũng chưa bao giờ có đoàn nào dám đi qua núi vào lúc mặt trời đứng bóng vào hai giờ tý và ngọ, là những giờ tìm mồi ăn trưa của chúa sơn lâm thần hổ. Tuy nhiên, mỗi đoàn đi qua miệng hang thế nào cũng phải để lại cho vài ba mạng. Nó gầm lên một tiếng rồi từ trong miệng hang phóng ra. Rồi chẳng biết nó bắt người bằng cách nào, hồi nào, đến khi đoàn kiểm điểm lại người khi qua núi rồi mới hay là thiếu.
Đó là khách thương. Còn những khách giang hồ có võ công muốn đi qua miệng hang cũng phải đợi có được vài mươi người, phân công cho nhau tìm cách kháng cự chu đáo rồi mới dám khởi hành. Nhưng rốt cuộc cũng phải có một hai người làm mồi tế hắc hổ.
Đại-hiệp Viên-Sĩ-Tiêu nghe chuyện hắc hổ hoành hành, giết hại khách đi đường qua núi Tu-Di nên quyết vì dân trừ hại và trả thù cho một số võ lâm đồng đạo bị ăn thịt mới một mình đến ngay miệng hang Thần Hổ vào giờ mặt trời đứng bóng mà khiêu khích.
Hắc hổ thoát được tử thần nhưng bị bẻ gãy một chân bên trái. Chờ luôn ba ngày không thấy hắc hổ về lại hang, đại-hiệp Viên-Sĩ-Tiêu cũng không còn cách nào trừ tuyệt được nên đành chờ dịp khác.
Viên-Sĩ-Tiêu đi rồi, hắn hổ mới dám trở lại chỗ cũ. Từ đó nó trở nên hung hăng hơn trước, hễ thấy có bóng dáng người võ lâm là gầm thét lên dữ dội, quyết định ăn thịt cho bằng được. Do đó mà lâu nay núi Tu-Di vắng khách qua lại.
Quan địa phương ra châu tri cho dân chúng hay, mỗi tháng có hai lần qua núi, chia ra, đầu tháng thì bên này sang, giữa tháng thì bên kia sang. Ai có việc cần qua núi Tu-Di thì tới đúng kỳ hẹn đến dưới chân núi chờ sẵn. Sau đó, đoàn người sẽ đi vào giữa, trước sau, hai bên đều có quân lính đi hộ tống, giương dáo mác, cờ xí ngập trời. Đạo quân hộ tống này có đến cả 5000 binh-sĩ, do một viên Tổng-binh và một viên Tham-tướng chỉ huy, đám đi tiên-phong, đám đi đoạn hậu, chẳng khác gì một cuộc hành quân quan trọng...
Lần này có việc khẩn cấp, Lục-Phỉ-Thanh phải qua núi Tu-Di. Cái danh từ ⬘hang Thần Hổ⬙ đã đồn đãi khắp giang hồ từ lâu nên cũng không xa lạ gì với Lục-Phỉ-Thanh. Kể về tài năng, Lục-Phỉ-Thanh vẫn tin tưởng ông ta thừa sức đối phó được với hắc hổ. Nhưng xưa nay, ông ta là người tinh tế, làm việc gì cũng muốn cho chắc chắn chứ không thích mạo hiểm cầu may. Vì vậy, ông ta vẫn có ý định chờ xem có cao thủ giang hồ nào qua lại sẽ rủ đi chung cho có bạn. Chờ một hồi khá lâu mà vẫn nhìn thấy bốn bề vắng ngắt, không một bóng người hay thú vật nào qua lại, Lục-Phỉ-Thanh mới nhận thấy quả con hắc hổ này quả đã gieo vào lòng người và muông thú niềm sợ hãi khủng khiếp. Chẳng những thế, luôn cả các loài dã thú cũng chẳng dám bén mảng. Núi Tu-Di đã trở thành giang san riêng của ⬘Hắc hổ⬙. Hang Thần Hổ là triều đình của nó, độc xà, mãnh thú còn ở tại núi Tu-Di là thần dân bộ hạ của nó. Lục-Phỉ-Thanh nghĩ thầm:
-Ta là một cao thủ võ lâm. Cái uy danh của Miên-Lý-Châm Lục-Phỉ-Thanh đã từng nhiều phen vang rền trong thiên hạ. Đáng lý ra ta phải noi gương Viên-Sĩ-Tiêu tìm đến hang Thần-Hổ mà trừ đại họa cho nhân dân, lẽ nào lại e dè không dám qua một mình mà phải chờ có đồng bạn đi chung? Như vậy võ công cao siêu của ta rèn luyện để làm gì? Há chẳng phải vô dụng lắm sao?
Nghĩ vậy, Lục-Phỉ-Thanh trở nên can đảm lạ thường, ngồi trên lưng ngựa, cầm thương, lưng đeo cung tên, túi đựng sẵn kim châm, mang theo bảo kiếm trông oai phong lẫm liệt, không hổ thẹn là một đại cao thủ của phái Võ-Đang.
Đến miệng hang Thần Hổ vừa đúng giờ ngọ, Lục-Phỉ-Thanh nhìn vào miếu thờ Hắc hổ thấy cảnh tượng thật là ghê gớm; nào là tượng cọp đen giương nanh vuốt; nào là hình tượng ma trành tay chân nhảy múa... Ông nhìn cái cảnh tượng trong miếu kia mà hình dung được tình cảnh của non sông hiện tại. Thật là một cái họa do người Mãn-Thanh gieo rắc vào Hán-tộc. Hắc hổ kia chính là vua Càn-Long cùng triều đình Mãn-Thanh và lũ ma trành kia chính là những tên tẩu cẩu. Phải, những tên ⬘ma trành⬙ tẩu cẩu chỉ cần làm vừa lòng ⬘hắc hổ⬙ là vua Càn-Long, sẽ sẵn sàng giết hại vô số đồng bào và các nhà cách mạng ái quốc. Con ⬘ma trành⬙ chúa tể hiện tại là Trương-Siêu-Trọng, sư đệ của Lục-Phỉ-Thanh, một cao đồ của phái Võ-Đang lại cam tâm đi uốn gối triều-đình Mãn-Thanh trong khi chính ông ta đã đóng góp bao nhiêu công sức cho các công cuộc ⬘phản Thanh phục Minh⬙. Bao nhiêu đồng chí trong Đồ Long Hội của ông ta đã phải hy-sinh, người thì tuẫn tiết, kẻ bị truy nã... Chính bản thân Lục-Phỉ-Thanh đã phải trốn chui trốn nhủi hết 10 năm trời! Ông ta chẳng phải tham sống sợ chết, chỉ là muốn dành cái mạn sống để chờ cơ hội tốt mà tiếp tục tranh đấu vì dân vì nước để giành lại chủ quyền, tự do no ấm cho dân tộc.
Hiện tại, Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy chỉ có Hồng Hoa Hội là đảng cách mạng duy nhất tiếp tục được công việc cứu quốc của Đồ Long Hội trước kia. Ông hoàn toàng không thân Hồng Hoa Hội nhưng cảm khái trước chí khí bất khuất của bọn Văn-Thái-Lai và cảm phục chính nghĩa của Hồng Hoa Hội, và lại có cảm tình với người bạn cũ là Triệu-Bán-Sơn. Vì vậy, nếu phải hy-sinh tánh mạng để đem tin đến Hồng Hoa Hội mà xin viện binh đến trợ giúp cho bọn Văn-Thái-Lai, Lục-Phỉ-Thanh cũng chẳng từ nan. Ông ta nghĩ:
-"Việc của Hồng Hoa Hội là việc chung của tất cả người dân trong nước."
Một khi đã nhận lời làm hộ, nhất định Lục-Phỉ-Thanh không thể để thất bại được. Vì vậy việc đi An-Tây làm ông ta nóng ruột không ít. Một phút trì hoãn là một phút thì giờ quý báu phí phạm.
Lục-Phỉ-Thanh định bụng bỏ qua câu chuyện trừ Hắc hổ mà cấp tốc tiếp tục cuộc hành trình đi An-Tây. Ông ta vừa phóng ngựa qua khỏi hang Thần Hổ thì một mùi hôi tanh từ đâu bốt lên bay vào mũi và một luồng gió lạnh tạt đến đàng sau lưng. Lục-Phỉ-Thanh nghi chắc Hắc hổ núp đâu đây rình lúc ông ta không để ý sẽ nhảy ra ⬘làm hỗn⬙. Loài hổ luôn dùng cái thế ⬘tiên hạ thủ vi cường⬙, nhưng một khi đã ⬘thành tinh⬙ thì hổ chỉ vồ người lén lút, không như hổ thường, trước khi vồ mồi thường hay gầm lên một tiếng để lấy trớn thị uy.
Con hắc hổn này đã thành tinh rồi nên rất khôn ngoan, thường hành động một cách im lìm khi con mồi không đề phòng đúng như binh pháp ⬘xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị⬙ (#3).
Ngửi thấy mùi tanh và nghe thoảng hơi gió, Lục-Phỉ-Thanh quay người lại đánh một quyền như búa bổ vào thinh không. Những cao thủ cỡ Lục-Phỉ-Thanh khi tung ra một ngọn quyền hay một ngọn cước đều không phải như cao thủ bình thường đánh gió vì trong quyền hay cưóc đó luôn luôn có một kình lực nhắm vào một mục tiêu. Cho nên, nhiều lúc họ không cần phải chạm vào người đối thủ mà vẫn đánh trúng chỗ nhược như thường, tựa như một tay thiện xạ bắn trúng hồng tâm.
Lục-Phỉ-Thanh ngồi trên lưng ngựa ngó về đàng trước nhưng luôn luôn đề phòng sau lưng và hai bên. Ngọn quyền đánh trái ra sau lưng như va vào một vật gì mềm và xù xì lông lá. Bỗng nghe một tiếng ⬘bịch⬙ như vật ấy rơi xuống đất nhưng hình như lại bật ngay mình trở dậy. Thì ra đó chính là con hắc hổ.
Lục-Phỉ-Thanh nhìn con vật mỉm cười. Nó đã thành tinh nên khôn ngoan ranh mãnh vô cùng. Nó có thể trông vào người mà biết được người đó có bản lãnh cao siêu hay không. Từ khi bị Viên-Sĩ-Tiêu bẻ lọi một giò, con hắc hổ căm thù những cao thủ trong giang hồ vô cùng. Bị qua một lần như thế, chính nó cũng tởn thần nên cũng học thêm được ít kinh nghiệm, hễ thấy các cao thủ võ lâm là luôn luôn cẩn thận đề phòng và hễ rình được cơ hội là sẽ vồ ngay. Nó vừa căm thù và cũng vừa sợ hãi những tay cao thủ, nó vẫn luôn đề phòng vì linh cản sẽ có ngày Viên-Sĩ-Tiêu trở lại quyết giết nó cho bằng được như lời thề của ông ta trên miệng hang Thần Hổ trước khi rời khỏi núi.
Nhờ có kinh nghiệm và biết đề phòng nên khi Lục-Phỉ-Thanh đến trước miếu Hắc hổ, nó không dám liều lĩnh xông ra làm càn. Trông bộ tịch, tướng tá, cách trang phục và trang bị của ông ta nó cũng biết là một cao thủ ghê gớm rồi. Từ khi bị Viên-Sĩ-Tiêu bẻ gãy chân, Hắc hổ không còn dám ngồi chực ở miệng hang mà cũng không dám nhìn chung quanh lối đó, chỉ leo lên chân ba của cây táo ở trước miếu liếc mắt xem chừng động tĩnh bốn phương mỗi khi nghe tiếng động. Nó có tài trèo cây rất giỏi. Tin đồn cọp không biết trèo cây thật là lầm to! (#4)
Khi Lục-Phỉ-Thanh đi ngang qua, hắc hổ vẫn lẳng lặng đứng yên trên cây, đợi cho ngựa ông ta vừa đi ngang qua đúng tầm thì phóng từ trên cây xuống, giương nanh vuốt định móc vào cổ họng ông ta. Chẳng ngờ Lục-Phỉ-Thanh lẹ quá, chỉ cần ngửi thấy mùi hôi tanh và nghe hơi gió sau lưng là đã biết ngay, do đó mới tung một quyền đánh trúng ngay yết hầu của hắc hổ. Tuy bị một quyền nhưng nó đã vùng lên được ngay dễ dàng đôi mắt nhìn thẳng vào Lục-Phỉ-Thanh để cướp tinh thần, miệng thì gầm lên một tiếng như muốn xé nát cả rừng. Sau đó, hai chân trước chống, hai chân sau phục ngồi xuống lừa thế, đợi thời. Cái thế ngồi này trong võ thuật gọi là Hổ Phục (#5), thế thủ cực kỳ lợi hại của giống hổ.
Giá mà Lục-Phỉ-Thanh dùng vũ khí hay ám khí mà tấn công nó trong lúc này thì sẽ cầm chắc cái thắng trong tay. Nếu hắc hổ không chết thì cũng sẽ bị trọng thương. Nhưng Lục-Phỉ-Thanh lại muốn xem tài lanh lẹn của nó đến thế nào do đó ông ta quyết định dùng quyền cước để đối phó với nó. Thấy ngồi trên lưng ngựa bất tiện, Lục-Phỉ-Thanh ngảy xuống đất trong khi con mãnh thú vẫn trong tư thế ⬘hổ phục⬙. Lục-Phỉ-Thanh không chần chờ tấn công liền ngay, chân đá móc vào ngực con hắc hổ, tay đánh một quyền ngay tam tinh nó. Con hắc hổ kinh hoàng, nó nhảy lùi ra sau tránh được cả quyền lẫn cước của Lục-Phỉ-Thanh rồi gầm lớn chồm lên giương nanh vuốt định xé xác ông ta ra.
Lục-Phỉ-Thanh chỉ chờ có thế, tay trái ông ta tung ra một quyền móc ngược vài hàm con mãnh thú. Hắc hổ đau quá, bật ngửa ra sau. Nhưng không đầy một giây nó đã đứng ngay dậy được, quay người phóng nhanh vào bụi rậm trốn mất. Mọi việc xảy ra quá bất ngờ làm Lục-Phỉ-Thanh phải ngạc nhiên không ít. Ông vẫn đinh ninh rằng con hắc hổ sẽ vồ tới tấn công tiếp chứ không ngờ là nó sẽ bỏ chạy. Định rút châm phóng theo nhưng bóng Hắc hổ đã mất hút. Lục-Phỉ-Thanh lắc đầu, thầm tiếc bỏ lỡ cơ hội giết ác thú trừ hại cho nhân dân.
Nghĩ rằng có chờ hắc hổ trở lại cũng chẳng ích gì vì sau khi bị một vố như thế, chắc hẳn là nó tìm đường trốn biệt rồi còn đâu. Sợ việc đi An-Tây bị đình trệ thêm, Lục-Phỉ-Thanh vội vàng lên ngựa phóng một mạch qua hang Thần Hổ.
Khi đi qua khỏi núi Tu-Di được vài dặm, Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy dọc theo hai bên triền núi còn in lại dấu máu của cuộc ách chiến hôm trước giữa người Duy và đám tiêu-sư của Trấn-Viễn tiêu-cục. Trận mưa làm máu loang ra nhuộm đỏ một khoảng dài. Lục-Phỉ-Thanh bất giác thấy ngậm ngùi, thở dài một tiếng. Ông ta lại nhận rõ được dấu chân con hắc hổ còn in rành rành trên mặt đất, chứng tỏ sau cuộc ác chiến nó đã đánh hơi được mùi tanh của máu đổ thịt rơi nên đã tới đây tìm mồi. Và bên cạnh dấu chân hắc hổ trên lớp máu hồng có rất nhiều dấu chân ngựa đi song song trông rất đều. Lục-Phỉ-Thanh thầm đếm kỹ có đến 20 cặp chân ngựa của 10 con tuấn mã hẳn hòi. Ông thầm nghĩ:
-"Chắc chắn đây là dấu vết của những đương-gia Hồng Hoa Hội đi từng cặp tham dự cuộc ⬘thiên lý tiếp long đầu⬙ mà mình đã gặp qua giữa đường chỉ còn thiếu có Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng là đủ 12 cặp như ta đã ức đoán. Cứ theo vó ký (#6) này mà đi ắt ta không sợ bị lạc và sẽ sớm tới được An-Tây. Tiết kiệm được thêm giờ phút nào thì hay giờ phút đó."
Đến một khúc vắng vẻ khác, Lục-Phỉ-Thanh lại thấy có những vùng đất nới thì trũng sâu xuống, chỗ thì tung tóe ra, nhiều cành cây nằm ngổn ngang, đá sỏi thì đầy dẫy, lại thêm cả những dấu chân của người, ngựa, lạc đà và cả hổ nữa. Điều đó chứng tỏ nơi đây vừa diễn ra một cuộc ác chiến mới, chỉ chưa biết rõ cuộc ác chiến kia xảy ra giữa người và người hay là giữa người và mãnh thú. Lục-Phỉ-Thanh nhĩ thầm:
-"Con đường độc đạo đi qua núi Tu-Di này giờ đây khác hẳn với con đường 10 năm về trước ta thường đi công tác qua lại! Không ngờ này nay lại trở thành ⬘sân khấu⬙ của những cuộc xô xát liên miên. Quân Mãn-Thanh xâm lược thật đã gieo rắc loạn lạc đến khắp nơi, ngay cả đến chốn rừng xanh núi thẳm cũng không tránh khỏi những cảnh thê lương ảm đạm! Ngày nào quân cướp nước chưa bị diệt là ngày ấy non sông còn đượm màu tang tóc, chưa thể có hòa bình được. Ta chỉ mong sao công cuộc cách mạnh của Hồng Hoa Hội sớm phát động và thành công để cái tuổi già này được chứng kiến ngày quốc gia độc lập, nhân dân được tự do no ấm thì dẫu có phải nhắm mắt ngay cũng chẳng còn gì phải ân hận nữa!"
Nhờ ý nghĩ ấy thúc giục mà Lục-Phỉ-Thanh quên cả nhọc nhằn, quyết đi thật lẹ đến An-Tây để đem tin tức của Văn-Thái-Lai báo cho Hồng Hoa Hội biết. Chính nghĩa hình như đã gắn liền Lục-Phỉ-Thanh với tổ chức cách mạng mà ông chỉ mới nghe nói đến tên cách đây không bao lâu. Đối với những tấm lòng nhiệt thành yêu nước thì cần phải có ai kêu gọi mà vẫn tự mình tìm đến để chia sẻ, cùng nhau gánh vác trách nhiệm.
Từ khi nghe tên và biết được đường hướng của Hồng Hoa Hội, lòng Lục-Phỉ-Thanh như trẻ hẳn lại. Sức thanh niên bỗng trổi dậy trong thân thể già nua kia khiến ông ta hối tiếc đã ẩn dật trên 10 năm làm mất đi bao nhiêu thì giờ quý báu. Ông ta lại cảm thấy càng hổ thẹn với lương tâm khi nghĩ đến người bạn cũ trong Đồ-Long-Bang là Triệu-Bán-Sơn đã đem tấm thân bảy thước cùng với lòng ái quốc kia qua Hồng Hoa Hội để mong được đền đáp núi sông. Tấc lòng son của họ Triệu kia thật là đáng quý, và đáng bội phục.
Chỉ trong khoảnh khắc mà Lục-Phỉ-Thanh đã qua khỏi núi Tu-Di non 45 dặm đường. Đến một thị trấn nhỏ, ông tạm dừng lại cho ngựa dưỡng sức, ăn cỏ và uống nước vì từ lúc rời khác sạn An-Viễn, con tuấn mã của ông chạy không ngừng, có lẽ cũng có phần mỏi mệt.
Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy phấn khởi tinh thần. Bao nhiêu sức lực của thời trai trẻ như lại vùng dậy, cho thấy rằng tuổi già của ông ta chưa phải là vô dụng. Dù chỉ còn một hơi thở, Lục-Phỉ-Thanh cũng quyết hy sinh cho tổ quốc thân yêu và dân tộc...
Nhìn con chiến mã, Lục-Phỉ-Thanh chợt lo âu. Con vật trung thành đã bao năm theo ông tung hoành ngang dọc khắp nơi đã không còn được phong độ như xưa nữa. Trông nó gầy, ốm yếu và chậm chạp đi rất nhiều. Thật khó mà có thể đòi hỏi nó rút ngắn lại lộ trình đi đến An-Tây như ý muốn được! Đưa được Lục-Phỉ-Thanh tới đây, con ngựa đã cố sức lắm rồi. Giờ đây trông nó thật hết sức thảm não, nếu muốn nó tiếp tục phải đi nhanh nữa thì có khác nào đem nó mà giết đi! Nhưng làm cách nào đổi được một con ⬘vạn lý long câu⬙ (#7) để hoành thành công tác của Văn-Thái-Lai ủy nhiệm? Mặc dù Lục-Phỉ-Thanh không phải là người của Hồng Hoa Hội nhưng Văn-Thái-Lai dám đem công việc quan trọng bí mật của đảng gửi gắm cho ông. Lòng khảng khải biết người kia cũng đủ nói lên tấm lòng tri kỷ sơ giao, càng làm cho Lục-Phỉ-Thanh cảm phục thêm muôn phần...
Lục-Phỉ-Thanh ngồi trên yên ngựa rong cương từ từ mà không khỏi mang những ý nghĩ mông lung. Việc gất rút phải đi đến An-Tây kia như đốt cháy lá gan lão kiệt. Mặt trời đã ngả dần về Tây. Bức màn màu vàng nhạt của hoàng hôn âm thầm phủ lên cảnh vật đưa dần một ngày tươi sáng đi vào bóng đen hắc ám của một đêm dài...
Phần thì lo cho Văn-Thái-Lai, phần thì thương con ngựa đuối sức không còn phi nổi nước đại. Chỉ đi chậm rãi từng bước một mà mồ hôi của con vật tuôn ra ướt đẫm. Công việc thì cấp bách như cứu hỏa. Nếu cứ thế này thì bao giờ mới đến được An-Tây! Lục-Phỉ-Thanh hận mình không mọc được cánh để bay...
Đang lúc lo nghĩ hoang mang, Lục-Phỉ-Thanh chợt bắt gặp từ phía chợ đi lại một người Duy cao lớn, tay dắt hai con ngựa trông cực kỳ hùng vĩ mạnh khỏe, một con hồng-mã toàn sắc đỏ chói như ngựa Xích-Thố của Quan-Vân-Trường và một con bạch-mã lông trắng toát như con Thoại-Long-Câu của Tiết-Nhân-Quý. Người Duy kia chẳng rõ muốn tìm ai mà đôi mắt như láo liên đưa mãi nhìn quanh khắp chốn.
Đang lúc cần ngựa, Lục-Phỉ-Thanh đưa mắt nhìn hai con ngựa như một người tham của bị chóa mắt trước một kho tàng. Trông gương mặt người Duy, Lục-Phỉ-Thanh thấy quen quen như đã gặp ở đâu rồi. Tuy vậy, ông cũng không bận để ý suy nghĩ thêm làm gì. Ông ta chỉ thiết tha với hai con tuấn mã kia hơn bất cứ vật gì trên đời hiện tại. Hai con tuấn mã này, con nào con nấy trông cao lớn, mạnh mẽ phi thường. Quả thật là hai con thiên lý mã. Con ngựa hồng toàn sắc đỏ như lửa có bốn chân trắng như tuết trông chẳng khác gì bốn đóa bạch mai. Con bạch mã thì chỉ một màu trắng toát toàn thân, không có một sợi lông nào khác màu ở bất cứ chỗ nào.
Lục-Phỉ-Thanh nhìn hai con tuấn mã đắm đuối, chỉ ao ước làm sao chiếm được một con. Nhìn hai thân hình cao lớn của đôi ngựa đi giữa cảnh hoàng hôn chẳng khác nào một bức tranh ⬘Song Mã⬙ giữa nền đỏ thật là tuyệt đẹp. Bốn mắt của đôi ngựa rực lên như hào quang, càng làm cho Lục-Phỉ-Thanh động tâm. Chẳng nói chẳng rằng, Lục-Phỉ-Thanh liền thúc ngựa đến chặn ngay trước đầu người Duy ấy lại rồi nắm tay y lại hỏi xem có chịu bán ngựa hay không. Thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, trông rất đạo mạo, có vẻ tiên phong đạo cốt hỏi mua ngựa một cách đột ngột, người Duy phải ngạc nhiên, ngơ ngác nhìn ông ta từ đầu đến chân. Có lẽ y cảm thấy rằng ông già này là một người đáng kính nên không tỏ ra một vẻ bất bình hay muốn sinh sự về thái độ mua ngựa sỗ sàng của Lục-Phỉ-Thanh mà chỉ lắc đầu lia lịa, không đáp.
Thấy người Duy không chịu bán ngựa, Lục-Phỉ-Thanh thất vọng vô cùng. Nhưng ông vẫn không chịu bỏ cuộc, đánh liều móc trong người ra một đỉnh bạc độ chừng 60 lượng trao tận tay hắn. Xưa nay, chưa có một ai chịu trả giá một con tuấn mã cao thế này nên Lục-Phỉ-Thanh tin chắc người Duy kia sẽ tham tiền mà nhường bớt lại cho ông ta một con. Chẳng ngờ người Duy kia vẫn lắc đầu như chưa đúng giá.
Quyết mua ngựa cho bằng được, Lục-Phỉ-Thanh chẳng chút đắn đo, lấy hết tiền bạc trong người ra rồi giũ túi cho người Duy thấy rồi cầm tất cả số bạc trao vào tay y. Số bạc này tổng cộng cũng hơn 60 lượng, vị chi trước sau là trên 120 lượng.
Nhưng người Duy đẩy tay Lục-Phỉ-Thanh lại, chẳng những lắc đầu mà còn lấy tay vẫy gạ đi, tỏ ý không chịu bán ngựa dù được trả với bất cứ giá nào đi chăng nữa.
Hoàn toàn thất vọng, Lục-Phỉ-Thanh không còn cách nào hơn là cất lại tiền bạc vào túi như cũ. Trong lúc vội vàng, ông ta đánh rơi một vật giữ làm ⬘kỷ niệm⬙ lâu nay. Vật ấy vô tình đập vào mắt người Duy kia. Y cúi xuống lượm vật ấy lên rồi đưa lên tận mắt mà xem. Rồi người Duy bỗng giật mình kinh ngạc đến cực độ, hai tay cầm trao trả lại cho Lục-Phỉ-Thanh. Sau đó, y rón rén nhìn xem dung mạo ông ta thêm lần nữa cho thật kỹ càng với một cử chỉ thân thiện và kính nể.
Lục-Phỉ-Thanh lấy làm lạ không hiểu rõ lý do gì. Ông đưa tay đón lấy vật người Duy trao trả. Thì ra đó là mũi Thiết-Liên-Tử mà đàng sau có gắn một chiếc lông chim trĩ rất tinh vi trông thật đẹp.
Nguyên mũi Thiết-Liên-Tử này là do Tiêu-Thanh-Đồng dùng để ném Lục-Phỉ-Thanh đêm nọ lúc ông ta theo dõi cái bóng đen vào tận trong rừng và sau đó được nghe lén cuộc hội nghị của người Duy thích huyết ăn thề phải chiếm lại Khả-Lan-Kinh cho bằng được. Khi biết việc không có can hệ gì đến mình, Lục-Phỉ-Thanh toan bỏ đi thì lại bị Tiêu-Thanh-Đồng phát giác tưởng là gian nhân nên dùng Thiết-Liên-Tử mà phóng. Mũi thứ nhất, Lục-Phỉ-Thanh tránh khỏi được. Mũi thứ nhì quá cận không thể tránh nên ông bèn dùng ly trà đang cầm ra mà hứng lấy. Sau đó Lục-Phỉ-Thanh cất mũi Thiết-Liên-Tử này vào người làm kỷ niệm, lần này vô ý để rơi nó ra ngoài cho người Duy trông thấy chẳng qua cũng chỉ là một sự ngẫu nhiên không hơn không kém...
Người Duy sau khi trông thấy mũi Thiết-Liên-Tử rơi từ trong mình Lục-Phỉ-Thanh thì chẳng hiểu sao trong lòng như rất phân vân. Lục-Phỉ-Thanh thoáng hiểu nên lanh trí cầm mũi Thiết-Liên-Tử trên tay, rút bảo kiếm ra chặt đứt mũi nhọn để tỏ lòng ngay thẳng, ngụ ý bảo là bạn chứ không phải thù. Hình như người Duy ấy hiểu được ý nghĩa trong cử chỉ ấy của Lục-Phỉ-Thanh nên mặt mày hớn hở, gật đầu lia lịa, tin tưởng rằng ông ta là bằng hữu của vị công chúa xứ mình chứ không phải người xa lạ hay kẻ thù.
Người Duy không biết nói tiếng Hán, mà Lục-Phỉ-Thanh cũng chỉ biết nghe sơ sơ, bập bẹ được vài tiếng Duy hai người đàm thoại với nhau bằng dấu hiệu nhiều hơn. Người Duy dắt hai con ngựa đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh ra dấu bảo ông ta cứ tự ý chọn lấy một. Cả hai con ngựa đều cao lớn, đẹp đẽ và mạnh mẽ như nhau cả. Nếu bảo phải chọn một thì thật là khó tính. Tuy nhiên, suy đi tính lại, Lục-Phỉ-Thanh quyết định chọn con ngựa hồng với bốn vó trắng vì tiện hơn cho ông ta đi vào ban đêm hơn. Ngựa trắng đi trong đêm sẽ dễ bị nhận diện hơn và tiện cho kẻ địch hơn trong việc dùng ám khí. Nghĩ vậy, ông liền ra dấu chỉ ccon ngựa hồng.
Người Duy gật đầu tỏ ý ưng thuận. Lục-Phỉ-Thanh mừng rỡ khôn xiết. Ông lấy hết túi tiền trao cho người Duy như khi nãy ông ta đã định giá. Cũng giống như lần trước, người Duy lắc đầu lia lịa và vẫy tay gạt đi. Nhưng lần này thì ý khác hẳn. Cử chỉ lần này như nói với Lục-Phỉ-Thanh là y khảng khái biếu ngựa chứ nhất định không bán mà cũng chẳng chịu nhận tiền. Lục-Phỉ-Thanh đành phải cất bạc lại vào mình rồi ra dấu nhờ người ấy dắt giùm con ngựa của mình về mà nuôi dưỡng để dùng vì nó cũng là một con chiến mã hữu dụng, không ngoan, lại trung thành. Người Duy cúi đầu khẽ gật rồi hai tay dắt hai con ngựa đi về phía thị trấn.
Lụ-Phỉ-Thanh mừng có được thiên lý mã nên tin tưởng chỉ nội trong đêm là có thể đến được An-Tây. Ông nhảy lên lưng con tuấn mã, bụng nghĩ thầm:
-"Không ngờ thanh thế của cô bé áo vàng kia đối với người Duy lại ghê gớm đến như vậy! Mũi Thiết-Liên-Tử của nàng có giá trị tương đương với một lệnh kim bài của một đại nguyên-soái. Ban đầu người Duy kia nhất định không bán ngựa mặc dù được trả giá trên trăm lượng thế mà khi nhìn thấy mũi Thiết-Liên-Tử này thì lại một mực biếu không tuấn mã cho mình trong khi chưa biết rõ mình là ai cả, đồng thời trên trăm lượng bạc ròng cũng chẳng thèm lấy nữa!"
Vì chưa hiểu rõ lai lịch của Tiêu-Thanh-Đồng nên Lục-Phỉ-Thanh nào biết được nàng là một công-chúa, ái-nữ của tù-trưởng Mộc-Trác-Luân, thủ-lãnh của dân-tộc Duy.
Người Duy tặng ngựa kia lại chính lại thuộc bộ-lạc dưới quyền cai trị của Mộc-Trác-Luân nên đối với Tiêu-Thanh-Đồng tự nhiên là kính nể. Hầu như tất cả dân tộc Duy đều biết vụ Tiêu-Thanh-Đồng bố trí kế hoạch nhằm mục đích đoạt lại Khả-Lan-Kinh cho dân tộc họ nên ai nấy đều phấn khởi tinh thần, tìm đủ mọi cách yểm trợ, đóng góp, không bằng hình thức này thì bằng hình thức khác. Vì vậy, khi nhìn thấy ngọn Thiết-Liên-Tử có khắc dấu hiệu của công chúa họ, người Duy kia tin là Lục-Phỉ-Thanh là người của phe bên mình nên không chút nghi ngờ. Lại thấy Lục-Phỉ-Thanh nhắm hướng Tây mà đi thì lại càng tin là ông ta đi theo để hợp sức vói Tiêu-Thanh-Đồng mà đối phó với cường địch để thâu hồi Khả-Lan-Kinh do đó mà vui vẻ tặng tuấn mã không chút do dự...
Con ngựa hồng bốn vó hoa mai phi như bay, chẳng khác gì một mũi tên lửa xẹt đi. Lục-Phỉ-Thanh nhận thấy rằng dù cho con ngựa hồng của Lý-Khả-Tú tướng-quân được vua Càn-Long ban cho, có tiếng là một ⬘thiên lý thoại long câu⬙ đời nay cũng không thể nào bì kịp. Lục-Phỉ-Thanh vui mừng hớn hở còn hơn được ngọc quý. Ông một mình một ngựa phóng như bay qua những con đường vắng trong hoàng hôn...
Con ngựa của Lục-Phỉ-Thanh đang cỡi nguyên là một giống ngựa quý, hiếm có của Mộc-Trác-Luân bao năm huấn luyện thành thục để dùng trong việc chinh chiến, chỉ riêng những người thân tín hay các võ tướng mới được dùng mà thôi. Trong 10 con ngựa quý nhất của bộ-lạc Mộc-Trác-Luân, con Hồng-Hoa tông mã này đứng hạng thứ 5, chỉ thua có ngựa của Mộc-Trác-Luân, của Tiêu-Thanh-Đồng, của Hương công-chúa, và của con trai lớn Mộc-Trác-Luân mà thôi. Cả 10 con ngựa quý nhất đều được đóng dấu ấn tín.
Chẳng mấy chốc, Lục-Phỉ-Thanh đã ra khỏi được thị trấn đếm mấy trăm dặm. Dưới bóng trăng vằng vặc, Lục-Phỉ-Thanh lòng khoan khoái nhìn gương mặt tròn, trong sáng của ⬘chị Hằng-Nga⬙ đang lấp ló xuyên qua từng kẽ lá như soi thấu lòng người anh-hùng nặng tình ưu ái với non sông.
Trước mặt Lục-Phỉ-Thanh là vài dãy núi cao chập chờn. Sau lưng là một giòng suối bạc lững lờ. Tiếng nhạn đêm... Tiếng hạc kêu sương... Đèn thuyền (#8) hiu hắt... Phong cảnh như khơi động lòng hoài cảm của khách chinh y.
Lục-Phỉ-Thanh cho ngựa leo theo triền núi gồ ghề, bất giác nhớ lại chuyện cũ 10 năm dư... Những lúc xông pha gió bụi, dãi dầu phong sương đem tấm thân bảy thước mong đáp bồi ơn cây cỏ (#9)... Gặp vận không may, Đồ-Long-Bang tan rã, công cuộc cách mạng không thành. Một số bang chúng đền nợ nước; một số vẫn còn đang đeo đuổi chí tang-bồng; còn thân mình thì nay đây mai đó, những tưởng đã chôn vùi tuổi trời trong chốn yên tịnh.
Lần này ra biên ải gặp lại bạn cũ chí còn hăng say, đem chính nghĩa góp công sức vào Hồng Hoa Hội làm cho Lục-Phỉ-Thanh thẹn thùng mà thức tỉnh. Ông quyết phen này ra sức đua tài để phục hồi lại chí khí năm xưa. Vì vậy, ông lại càng nóng lòng mà đi An-Tây để được tận mắt nhìn thấy các nhân vật ưu tú trong Hồng Hoa Hội đồng thời có dịp nhận xét tổ chức cách mạng này ra sao...
Non xanh nước biếc, gió mát trăng thanh không thể cầm chân được Lục-Phỉ-Thanh lại nơi đây để thưởng thức cảnh vật hữu tình. Nhưng trong giây lát, lòng Lục-Phỉ-Thanh thấy cảm hứng lạ thường. Ông sực nhớ lại một bài thơ của Nhạc-Phi đời Tống bèn đem ra ngâm vang lên giữa cảnh hoang vu.
Niên lai trần thỏ mãn chinh y,
Đắc đắc nhàn khan thượng thúy vi.
Hảo cảnh, hảo sơn, khan bất tuyệt,
Mã đề thời sấn nhạn nam phi.
Hoàn cảnh Nhạc-Vũ-Mục (#10) thật giống với cảnh của Lục-Phỉ-Thanh ngày nay. Tuy mến cảnh nhưng lại không có thì giờ thưởng ngoạn vì tiếng nhạn phương Nam như thúc giục người yêu nước mau mau lên đường làm bổn phận thiêng liêng. Tiếng ngâm của Lục-Phỉ-Thanh ngân lên giữa đêm vắng. Tiếng dư âm như vọng lại, dường như lời của non sông đáp lại cùng ông...
Qua khỏi ngọn núi, một xóm nhà tranh của chốn thôn dã hiện ra ngay dưới chân núi với một vài ngọn đèn đêm lờ mờ. Lục-Phỉ-Thanh đến một vách lá quạnh hiu, dắt ngựa vào sân và lên tiếng gọi cửa. Một cụ già trạc ngoài lục tuần cầm đè bước ra. Thấy Lục-Phỉ-Thanh tướng mạo đường bệ, oai phong lẫm liệt, cụ già vui vẻ mời vào nhà...
Sau một tuần trà, Lục-Phỉ-Thanh thú thật là phải đi ngàn dặm xa xôi vì có việc cần nên tình cờ ghé ngang qua đây xin nghỉ chân vài tiếng vì người đói, ngựa mỏi, rồi sau đó lại tiếp tục lên đường. Hai người tiếp tục ngồi hàn huyên, mỗi lúc một thêm tương đắc. Lục-Phỉ-Thanh mới hay cụ già này trước kia, lúc còn trẻ cũng là một nhân vật giang hồ. Lúc Đồ-long-Hội khởi cuộc kháng Thanh, cụ có chiêu mộ một số thanh niên trong vùng đón đường quan quân đánh nhiều trận du kích làm cho bin triều phải khiếp sợ. Khi được biết Lục-Phỉ-Thanh là một trong các cựu lãnh tụ của Đồ-Long-Hội, cụ già mừng rỡ vô cùng, lấy chân tâm mà đối xử chứ không còn khách sáo nữa.
Cụ già trải chiếu, bảo Lục-Phỉ-Thanh nằm nghỉ lưng đỡ, gọi vợ con thức dậy làm một bữa cơm đạm bạc đãi đằng, còn đích thân cụ lo cỏ rơm cho ngựa. Sự tiếp đãi ân cần ấy làm cho Lục-Phỉ-Thanh hết sức cảm động. Ông nghĩ rằng trong chốn ⬘thâm-sơn cùng-cốc⬙ (#11) mà còn có được những bậc anh-hùng vô danh ẩn tích thế này thì vận mạng của Hán-tộc chưa đến nỗi phải tuyệt vọng. Lục-Phỉ-Thanh không cần giấu diếm nữa, liền nói cho cụ già hay là ông đi An-Tây tìm Hồng Hoa Hội để thực hiện một công tác rất quan trọng, có thể được là cứu dân cứu nước.
Cụ già tự giới-thiệu tên họ là Trần-Đại-Dụng, biệt danh là Vô-Ngã, người thôn Kinh-Trang. Ông ta hứa với Lục-Phỉ-Thanh rằng lúc nào ⬘khai quân cần vương⬙ (#12) thì chính ông ta sẽ đứng ra chiêu mộ nghĩa quân vùng này tiếp chiến. Không cần phải đắn đo suy nghĩ, Trần-Đại-Dụng tuyên bố sẽ tình nguyện làm một mật báo viên và nguyện đem thảo trang của mình làm trạm nghỉ chân và trụ sở liên lạc cho tất cả người của Hồng Hoa Hội có thể ghế đến bất cứ lúc nào.
Lục-Phỉ-Thanh không ngờ lại tìm thêm được một người đồng chí mới nữa. Đôi bên ý hợp tâm đầu chẳng khác gì đôi bạn thâm giao, quen nhau từ lâu lắm rồi.
Trần-Đại-Dụng lại tâm sự, kể chuyện cho biết rằng ông ta là môn đồ của Yên-Chi Hòa-Thượng thuộc phái Thanh-Thành nên tài năng kiếm-pháp của ông ta một dạo cũng từng được các phái võ-lâm biết đến và ca ngợi khá nhiều. Sau khi được tin Đồ-Long-Hội tan rã, Trần-Đại-Dụng một mình ẩn tích nơi đây, không còn muốn nhúng tay vào chuyện giang-hồ nữa mà chỉ đứng trung-lập, không thuận ai mà cũng chẳng nghịch ai. Nhưng hầu hết các giang hồ đồng đạo biết tài của ông ta đều tông trọng ông ta chứ chẳng dám đụng đến.
Ngay cả Uy-Chấn Hà-Sóc Vương-Duy-Dương kia còn phải nể nang Trần-Đại-Dụng. Cứ mỗi lần có tiêu-hàng tải qua vùng này, họ Vương đều cho một vài tiêu-sư đại diện Trấn-Viễn tiêu-cục đến báo tin trước, đồng thời kính biếu ông ta một ít vàng bạc khá hậu hĩnh. Đối với các tiêu-sư trong Trấn-Viễn tiêu-cục, Trần-Đại-Dụng quen mặt và biết tên gần hết. Người ông ta ghét nhất là Đổng-Triệu-Hòa, và hắn cũng gườm ông ta nhất. Có một lần hắn giở thái độ ngạo mạn, đến vùng này mà quen thói lỗ mãng và hách dịch xem thường nên Trần-Đại-Dụng đã sửa trị hắn một trận nên thân. Nếu không nhờ Diêm-Thế-Chương xuống nước hết lời năn nỉ chắc lưỡi kiếm ⬘Can-Tương⬙ của ông ta đã cho hắn một nhát rụng đầu rồi...
Nghe nhắc đến tên ⬘Can-Tương⬙, Lục-Phỉ-Thanh thích lắm liền yêu cầu Trần-Đại-Dụng cho xem thử vì xưa nay ông chỉ được nghe nhắc đến tên thôi mà chưa hân hạnh được thấy lần nào.
Trần-Đại-Dụng liền vào trong đem ra một cái bao da bọc gấm lấy Can-Tương kiếm cho Lục-Phỉ-Thanh xem. Lưỡi kiếm dài độ 6 tấc, mỏng như lá lúa. Kiến quang long lanh một màu hồng như ánh dương mới mọc. Kiếm khí lạnh như tuyết giá. Thật là một thanh kiếm báu hy hữu. Cao hứng, Lục-Phỉ-Thanh xin mượn kiếm múa thử một vài đường. Trước sân rộng dưới ánh trăng, Lục-Phỉ-Thanh múa kiếm vùn vụt. Kiếm quang rực sáng che lấp cả bóng người sử dụng. Trần-Đại-Dụng vừa xem vừa trầm trồ khen ngợi, trong lòng hết sức thán phục là kiếm-thuật phi thường...
Múa kiếm xong, Lục-Phỉ-Thanh xoay nguợc chuôi kiếm, cung kính trao trả lại. Nhưng Trần-Đại-Dụng lắc đầu cười, khảng khái đem ngay bảo kiếm Can-Tương tặng cho Lục-Phỉ-Thanh, với ngụ ý rằng kiếm báu dùng để tặng tráng-sĩ đặng giết giặc cứu nước. Lục-Phỉ-Thanh cả kinh, đời nào dám nhận lấy. Nhưng có nói cách nào mãi vẫn không xong. Trần-Đại-Dụng một hai bắt Lục-Phỉ-Thanh phải nhận lấy. Sau cùng, không còn cách nào từ chối được, Lục-Phỉ-Thanh đành nhận lấy với lời thề long trọng cùng chủ nhân là nếu không chu toàn trách nhiệm trừ gian diệt bạo cho nhân dân thì thà là chết với bảo kiếm chứ quyết không để nhục.
Đã được tặng tuấn mã, giờ lại được tặng thêm bảo kiếm, Lục-Phỉ-Thanh tron lòng khoa khoái đến cực độ. Ông ta tự nhủ:
-"Với chiến mã và bảo kiếm, từ nay ta có thể tái xuất giang hồ được rồi. Cho dù là Trương-Siêu-Trọng thì đã sao? Ta há sợ nó? Chỉ tiếc sư phụ quá cưng chiều nên truyền cho hắn bản lãnh phi phàm để hại nước, hại dân, làm nhục cả đến sư môn. Phải chi Trương-Siêu-Trọng chịu theo chính nghĩa, đứng về phía hàng ngũ cách mạng thì thật may cho phái Võ-Đang biết mấy! Lúc đó cả uy danh của môn phái lẫn sư phụ ai lại không cảm phục? Lịch-sử lẽ nào quên ghi tên?"
Lúc ấy, cả người lẫn ngựa đã no nê được nghỉ đủ. Lục-Phỉ-Thanh bèn ngỏ ý từ giã Trần-Đại-Dụng để lên đường đi An-Tây cho kịp. Lúc chia tay, hai đầu bạc tỏ ra quyến luyến nhau, cùng hẹn ngày tái ngộ. Trần-Đại-Dụng gói cho Lục-Phỉ-Thanh một ít lương khô, lại không quên kèm theo một bao thóc cho ngựa đồng thời tiễn khách quý ra xa ngoài ba dặm mới chịu quay đầu trở lại...
Lục-Phỉ-Thanh lại tiếp tục cuộc hành trình. Phải đi thêm hai ngày một đêm nữa, tính ra trước sau có trên 1000 dặm đường, Lục-Phỉ-Thanh mới đến được địa phận An-Tây. Đó là cũng nhờ vào một phần lớn ở sức lực con thiên lý mã.
Sau ba ngày ba đêm dầm sương dãi nắng, ăn qua loa, ngủ cầm chừng, khởi nguồn từ khách sạn An-Viễn, Lục-Phỉ-Thanh cảm thấy chân tay rã rời, mệt mỏi, tinh thần suy kém rất nhiều.
Lúc ấy mặt trời đã bắt đầu lặn. Vào đến cửa Đông thành An-Tây, Lục-Phỉ-Thanh chợt nhớ tới lời dặn của Văn-Thái-Lai nên lấy cái hoa mai đỏ gắn vào chót mão của mình.
Lục-Phỉ-Thanh liền xuống ngựa, cầm cương dắt đi chậm rãi vào thành. Chỉ vì ông ta sợ ngồi trên lưng ngựa đi giữa một thành phố giàu có, tấp nập dân cư, từ xe ngựa cho đến khách bộ hành. Đó là chưa kể sẽ có kẻ rong cương qua, người cỡi ngựa đi lại, rất có thể che lấp mất cái hoa mai đỏ trên mão mình nên người của Hồng Hoa Hội khó mà nhận ra được.
Với lớp áo pha màu bụi đường, ngựa ướt đẫm mồ hôi, Lục-Phỉ-Thanh khó tránh được những cặp mắt sửng sốt đổ dồn về mình. Biết là bất tiện cho mình, nhưng không còn cách nào hơn nên Lục-Phỉ-Thanh đành phải tiếp tục mà dắt ngựa đi tiếp, chỉ mong sao sớm gặp được người của Hồng Hoa Hội ra đón.
Đi ngang qua một con đường khá náo nhiệt, Lục-Phỉ-Thanh nhìn thấy đầu kia có hai chàng thanh niên cao lớn, mặt mũi sáng sủa đang hấp tấp băng qua đường hướng thẳng về phía ông ta mà đi tới đón đầu. Lục-Phỉ-Thanh cứ giả vờ như không hề để ý đến hai người ấy. Ông vẫn tiếp tục dắt ngựa đi nép theo mé đường.
Hai thanh niên kia đến trước mặt Lục-Phỉ-Thanh cúi đầu lễ phép chào rồi mời ông theo họ vào một tửu lầu uống rượu. Thái độ và cử chỉ ấy của hai thanh niên ấy không làm cho Lục-Phỉ-Thanh ngạc nhiên chút nào vì ông tin chắc rằng họ là người của Hồng Hoa Hội đã nhận được dấu hiệu hoa mai đỏ trên mão mình. Nếu không là vậy thì tại sao chưa hề quen biết gặp mặt nhau sao lại tự nhiên mời vào quán như gặp người quen như vậy?
Không chút do dự, Lục-Phỉ-Thanh nhận lời ngay. Một trong hai người thanh niên đưa tay tiếp lấy giây cương dắt hộ ngựa cho Lục-Phỉ-Thanh để ông ta thoải mái đi người không. Dọc đường có không biết bao nhiêu là tửu lầu đủ hạng, sang trọng bình dân, lớn nhỏ... Nhưng hai người không đưa Lục-Phỉ-Thanh vào bất cứ nơi nào. Họ đưa ông đi hết con đường đó, rồi đến cuối một con đường khác nữa thì mới tới một tửu lầu trên tấm bảng hiệu có bốn đại tự sắc xảo, màu đỏ thếp vàng: TẬP HIỀN TỬU LẦU.
Lục-Phỉ-Thanh nghĩ bụng:
-"Chắc đây là tửu lầu của Hồng Hoa Hội lập ra để đón rước người trong tổ chức của họ."
Nhưng vì chưa nghe hai chàng thanh niên mở miệng ra nói một câu gì nên Lục-Phỉ-Thanh chỉ im lặng mà đi theo, không một lời gặn hỏi hay thắc mắc.
Thấy có khách vào, một tên tửu-bảo chạy ra đón tiếp, một tên khác dẫn ngựa ra sau mà không đợi cho hai chàng thanh niên kia phải sai bảo điều gì. Lục-Phỉ-Thanh thấy vậy lại nghĩ:
-"Họ có nội quy, kỷ luật hẳn hòi đâu ra đó như đã xếp đặt sẵn từ trước, cứ phận sự ai nấy làm."
Hai chàng thanh niên mời Lục-Phỉ-Thanh lên thẳng tầng thứ nhất, ngồi vào bàn ở góc trái, có tấm vách mỏng ngăn ra.
Tập-Hiền Tửu-Lầu rộng rãi, và khoảng khoát, lại vô cùng sạch sẽ. Mặt trước tửu lầu day ra phía bờ sông nên gió chiều thoảng vào mát mẻ, thật dễ chịu. Tầng lầu này cũng có đầy đủ bàn ghế như tầng dưới, chỉ khác chỗ là tầng dưới khách ra vào đông nghẹt, còn tầng này thì gần như là trống trơn ngoại trừ hai bàn, mỗi bàn với bốn người khách ngồi vừa uống rượu vừa nói chuyện. Còn cái phòng có dựng bức bình phong mỏng mà họ mời Lục-Phỉ-Thanh vào thì hoàn toàn không có ai cả.
Mấy người khách đang ngồi uống rượu bỗng nghe có tiếng chân người đi lên thì đều ngước mắt, quay mặt lại nhìn. Nhưng khi thấy hai chàng thanh niên kia đưa Lục-Phỉ-Thanh vào phòng có vách mỏng ngăn thì họ lại tiếp tục uống, cười đùa tự nhiên mà không cần phải liếc ngó nữa. Lục-Phỉ-Thanh lại nghĩ trong bụng:
-"Chắc đây toàn là nguời của Hồng Hoa Hội, dầu thấy ta là người lạ mặt nhưng tin chắc là người trong hội nên chẳng cần phải e ngại mà để ý gì nữa."
Lục-Phỉ-Thanh vừa ngồi xuống ghế thì tửu-bảo đã bưng vào một mâm rượu. Một chàng thanh niên mời Lục-Phỉ-Thanh uống rượu còn người kia vòng tay lại nói:
-Tiền bối! Tiểu-sinh cam thất lễ với người. Xin kiếu!
Nói xong, chàng ta đứng dậy cúi đầu lễ phép chào Lục-Phỉ-Thanh rồi lẹ chân bước mau ra ngoài. Chàng thanh niên còn lại ân cần mời Lục-Phỉ-Thanh uống mấy chén tẩy trần. Chàng ta chỉ mời Lục-Phỉ-Thanh dùng rượu với đồ nhắm, tuyệt đối không đề cập đến chuyện gì khác nên ông cũng chưa biết rõ được hư thực như thế nào, chỉ ngồi yên uống rượu và nhắm đồ với người này. Một tên tửu-bảo lại xô cửa bước vào. Chàng thanh niên lại nâng ly mời Lục-Phỉ-Thanh nói:
-Lão tiền bối chắc chưa dùng cơm. Xin cạn thêm một vài chén trong khi chờ đợi tửu-bảo bưng đồ ăn lên. Xin lão tiền bối cứ tự nhiên vì chúng tôi bao giờ cũng thật tình đãi khách.
Lục-Phỉ-Thanh bèn tạ lại rằng:
-Vâng! Uống mấy chén rượu thế này cũng đủ rồi. Xin cho tôi được dùng chút cơm vì hiện tại đang đói bụng.
Không chậm trễ, chàng thanh niên quay qua tửu-bảo dặn:
-Mau dọn gấp một bữa ăn với đầy đủ các món thật tươm tất nhé!
Lục-Phỉ-Thanh thấy thế vội ngăn lại:
-Không cần phải thịnh-soạn chi cả! Chỉ cần một bữa cơm thật đạm bạc là quý lắm rồi!
-Chẳng đáng gì! Xin lão tiền bối đừng ngại.
Tên tửu-bảo vừa đi khỏi, chàng thanh niên lại mời Lục-Phỉ-Thanh uống tiếp một chung rượu mới:
-Rượu thuốc này đặc biệt lắm! Lão tiền bối uống vào dùng cơm sẽ rất ngon miệng, dễ tiêu hóa, và đi đường xa sẽ bớt mệt nhọc, giãn gân giãn cốt, bớt nhức mỏi.
Lục-Phỉ-Thanh tự hỏi:
-"Sao hắn không hỏi chuyện gì cả mà chỉ mời ăn uống không như thế? Đã tốn thì giờ lại càng khiến ta thêm nóng ruột!"
Một ý nghĩ đáng sợ khiến cho Lục-Phỉ-Thanh đâm ra hoài nghi. Ông lo ngại nghĩ thầm:
-"Hay bọn này không phải là người của Hồng Hoa Hội? Không khéo ta tin lầm mà mắc bẫy đây! Nếu chúng là bọn ⬘tẩu cẩu⬙ của Càn-Long phái đi dọ thám Hồng Hoa Hội, đồng thời lại phát giác được lai lịch của ta mà dụ tới đây để gài bẫy thì nguy to! Chưa gặp được Thiếu-Đà-Chủ để báo tin của Văn-Thái-Lai mà lại bị bắt thì thật là rắc rối không ít! Thành tích và lai lịch của ta thì bọn triều đình mấy ai không rõ, nhất là Trương-Siêu-Trọng. Tốt hơn hết ta phải đề phòng ngay từ giờ phút này!"
Lục-Phỉ-Thanh đang phân vân chưa biết phải làm gì thì một ý nghĩ khác lại nảy ra trong đầu:
-Tổng hành dinh của Hồng Hoa Hội nằm ở An-Tây này thì có lẽ nào bọn Trương-Siêu-Trọng lại dám tự tung tự tác như thế? Mình bất tất phải lo xa như vậy!"
Nhìn nét mặt ưu tư và bơ phờ của Lục-Phỉ-Thanh, chàng thanh niên hình như cũng đoán được phần nào bèn nói như trấn an:
-Lão tiền bối đã đến được An-Tây này thì chẳng có gì phải e dè lo ngại cả! Xin lão tiền bối dùng cơm rượu cho no rồi nghỉ cho khỏe rồi chúng tôi sẽ xin hầu chuyện cùng tiền bối sau.
Lục-Phỉ-Thanh chưa kịp bày tỏ ý kiến của mình theo lời nói của chàng thanh niên kia thì cánh cửa phòng rượu lại được mở ra. Một chàng thanh niên khác từ bên ngoài chậm rãi bước vào hướn vào Lục-Phỉ-Thanh vái dài một cái rất trịnh trọng và lễ phép. Chàng thanh niên này mặc một chiếc áo dài màu lam, tuổi chỉ chừng khoảng 30 trở lại. Mặt chàng ta rất sáng sủa, dáng người trông rất thanh, nhất là đôi mắt tinh anh như có hào quang, trông đầy vẻ uy nghiêm khiến người nào trông vào cũng phải có ý kiêng nể ngay.
Chàng mời Lục-Phỉ-Thanh ngồi rồi cũng tự ý kéo ghế ngồi đối diện, nhưng hơi xê dịch qua mọt bên chút đỉnh để tỏ ý tôn trọng bậc trưởng bối. Sau đó chàng lễ phép thỉnh danh tánh của Lục-Phỉ-Thanh. Ông ta cũng khiêm tốn khai thật tên họ mình cùng với biệt hiệu Miên-Lý-Châm mà không cần phải giấu diếm làm gì. Chàng ta nghe xong tỏ vẻ kính nên đứng dậy nói:
-Thế ra đây là Lục lão tiền bối của phái Võ-Đang mà vãn bối không hay biết gì cả! Xin tha cho tội thất lễ.
Lục-Phỉ-Thanh nói:
-Lão phu không dám. Xin huynh đài cứ tự nhiên an tọa để cho lão phu được tiếp chuyện.
Khi ấy chàng ta mới dám ngồi xuống ghế lại như cũ rồi tiếp tục nói:
-Tiểu đệ thường nghe Triệu tam ca luôn luôn nhắc nhở đến đại danh của lão tiền bối, lòng vốn ngưỡng mộ từ lâu. Ngày nay được hân hạnh bái kiến thì thật là vinh hạnh biết bao nhiêu.
Lục-Phỉ-Thanh khiêm tốn đáp lễ và hỏi:
-Xin huynh đài cho lão phu được thỉnh cao danh quý tánh.
Chàng thanh niên liền đáp:
-Vãn bối là Vệ-Xuân-Hoa.
Chàng thanh niên bồi rượu Lục-Phỉ-Thanh lúc nãy đứng dậy hướng về Lục-Phỉ-Thanh thưa:
-Xin lão anh hùng ngồi bàn chuyện với Vệ huynh. Cho phép vãn bối được cáo thoái!
Đoạn chàng ta cúi đầu chào Lục-Phỉ-Thanh và Vệ-Xuân-Hoa rồi bước ra ngoài đi thẳng xuống thang lầu.
Vệ-Xuân-Hoa nói với Lục-Phỉ-Thanh:
-Cả Thiếu-Đà-Chủ cùng các anh em Hồng Hoa Hội chúng tôi phần đông đều có mặt ở đây. Họ nghe tin tiền bối có mặt nơi này sẽ lần lượt kéo đến nghinh tiếp. Vãn bối được đặc phái tới trước để dâng tiệc rượu vì lo ngại bọn em út thô thiển sơ sót mà đắc tội với lão tiền bối. Còn lại mấy người kia sẽ đến sau.
Khi ấy, một bữa cơm thịnh soạn đủ sơn hào hải vị, chẳng thiếu món ngon vật lại nào được dọn lên. Vệ-Xuân-Hoa tự tay rót rượu Bồ-Đào và chung, trịnh trọng đứng dậy chắp tay kính cẩn mời Lục-Phỉ-Thanh. Chàng ta để Lục-Phỉ-Thanh ngồi vào ghế chánh vị, còn mình ngồi ở cái ghế sau xa tiếp.
Thấy người của Hồng Hoa Hội đối với mình quá trọng vọng, tiếp đãi thật ân cần, Lục-Phỉ-Thanh lấy làm cảm kích vô cùng, cố chối từ địa vị mà Vệ-Xuân-Hoa nhượng cho mình. Ông yêu cầu Vệ-Xuân-Hoa ngồi đối diện với mình nhưng chàng ta nhất định không nghe, thưa rằng:
-Lão tiền bối là một bậc anh hùng vang danh bốn bể mà Hồng Hoa Hội bấy lâu thường ao ước được một phen cung nghinh đón tiếp. Không ngờ sở vọng ấy hôm nay được toại nguyện. Thiếu-Đà-Chủ đã có lệnh sai bảo, vãn bối nào dám cãi lời! Tổng-Đà-Chủ lúc sanh tiền vẫn thường nói chuyện với Triệu tam ca rất nhiều về đại đức và tài nghệ cao siêu của tiền bối. Cho đến Viên-Sĩ-Tiêu đại hiệp cũng không lúc nào quên nhắc nhở đến uy danh của tiền bối nên bọn vãn bối đây tuy chưa được gặp mặt nhưng đã một lòng ngưỡng mộ. Vậy xin lão tiền bối cứ tự nhiên để cho vãn bối được bồi tiếp.
Lục-Phỉ-Thanh không còn cách nào từ chối được, đành phải nghe theo. Vệ-Xuân-Hoa bưng rượu Bồ-Đào thơm ngát lên mời Lục-Phỉ-Thanh rồi sau đó mới dám uống.
Vừa dùng cơm vừa uống rượu mà