Lúc mọi người đều quan tâm đến Lưu Văn Cát thì có một người lại nhân lúc đêm dài mà chạy trốn.
Người này bị nhốt trong phủ đệ của mình, chính là Binh Bộ Thượng Thư chưa bị định tội, cũng là Triệu Công.
Triệu Công tiếp tay cho giặc nhiều năm, tự biết nếu chuyện vỡ lở thì chỉ sợ chết là cái chắc.
Ông ta hoảng sợ không chịu nổi một ngày nào nữa, trong lòng luôn lo lắng phập phồng.
Gã sai vặt ngoài cửa lặng lẽ nói cho ông ta rằng Ngôn Thượng và Mộ Vãn Diêu đã trở lại, bọn họ đều đang ở hoàng cung.
Triệu Công ý thức được đây là cơ hội duy nhất để mình chạy trốn.
Vì thế ông ta để hộ vệ trung thành nhiều năm ra ngoài tiếp ứng, lại đánh thuốc mê người canh giữ mình sau đó đổi quần áo với gã sai vặt.
Đây là lần đầu tiên trong đời ông ta mặc thứ quần áo thô lậu này, lại phải đội cả nón.
Nhưng trong lúc sống còn ông ta cũng đành mặc, sau đó lãnh ba bốn hộ vệ chạy trốn ra khỏi thành Trường An.
Quan Trung lúc này đã không an toàn, có lẽ phải tới Hà Tây, nơi đó ngư long hỗn tạp hẳn có thể giúp ông ta thoát được truy lùng.
Chiến sự giữa Đại Ngụy và Nam Man vừa mới kết thúc, ngoài thành Trường An lúc này đã bình an.
Triệu Công lẩn trốn cả đêm, vô cùng hoảng loạn.
Ra khỏi Trường An được vài dặm, thấy phía sau không có truy binh ông ta mới yên tâm.
Ai ngờ lúc này hộ vệ cưỡi ngựa theo sau ông ta lại sợ đến mức mặt trắng bệch, mắt trợn tròn hô: “Triệu Công!”
Bọn họ hoảng sợ giống như nhìn thấy thứ gì đó cực kỳ khủng khiếp.
Triệu Công theo tầm mắt của bọn họ nhìn lại thì thấy ở rừng cây phía trước có mấy người đang đứng chờ.
Cả người bọn họ chìm trong ánh mặt trời mờ ảo, giống như đã đợi rất lâu.
Người đi đầu cùng Triệu Công nhìn nhau sau đó phóng ngựa tới.
Triệu Công nhìn ngựa đạp qua khe suối băng đến như mũi tên thì trong lòng hoảng sợ, mặt nghẹn đến xanh xao, hô hấp cũng không thông thuận.
Người kia càng chạy càng gần, Triệu Công trừng mắt thật lớn, tâm tình ngược lại thả lỏng hơn.
Đó là vì ông ta nhìn thấy người dẫn đầu chính là con gái mình, Triệu Linh Phi.
Triệu Linh Phi dẫn mấy hộ vệ chờ ở chỗ này, chặn con đường sống của cha mình.
Còn Triệu Công cũng đã lâu không thấy con gái, kỳ thực gần 10 năm nay ông ta và đứa con này đã ly biệt quá nhiều.
Bây giờ gặp lại thấy con gái vẫn như cũ, chỉ có ngây thơ giữa mày của nàng đã hoàn toàn không còn.
Gò má nàng gầy gò, tóc dài búi dưới ngọc quan.
Nữ lang trẻ tuổi giống những nam nhi trên chiến trường, ánh mắt kiên định lãnh khốc, lúc ngồi trên lưng ngựa cực kỳ hiên ngang, oai hùng.
Triệu Công vui mừng, vội nói: “Linh Phi, mau giúp vi phụ! Ngôn Nhị đã vào Trường An, trưởng công chúa điện hạ…… Không, hiện tại là đại trưởng công chúa điện hạ cũng đã tới Trường An.
Hai người bọn họ tất nhiên sẽ muốn giết vi phụ, con mau giúp ta.”
Triệu Linh Phi nhìn Triệu Công.
Đôi mắt nàng như dòng sông trầm tĩnh, nhưng vẫn sáng như sao trời.
Trong con sông ấy, nàng nhìn thấy ông ta, cũng nhìn thấy anh họ đã chết, thấy bản thân mình ngồi xổm trên mặt đất khóc bất lực.
Dù nàng có làm gì cũng không thể quay ngược lại thời gian để cứu anh họ.
Lòng nàng vừa thẹn vừa hận, đau không thể thở nổi.
A phụ hẳn phải biết vì sao nàng lại xuất hiện ở đây chứ?
Triệu Công nhìn đôi mắt lấp lánh của nữ nhi, trong lòng đột nhiên hiểu ra.
Ông ta thu lại ý cười, muốn quát mắng, nhưng lại sợ hãi.
Ông ta nắm chặt cương ngựa, khô khốc nói: “Linh Phi, nếu không cứu thì con nhường đường để vi phụ đi.
A phụ nuôi con mười mấy năm, bản thân con lại rời nhà cũng gần 10 năm rồi, chúng ta hẳn cũng phải có chút tình cảm chứ? Ta là phụ thân của con đó!”
Triệu Linh Phi rưng rưng nước mắt nhưng lại không hề khóc.
Nàng đứng trong gió, sợi tóc phất qua gò má sương lạnh.
Nàng đau đớn muốn chết, nhưng vẫn gằn từng câu từng chữ: “Ngài không thể đi.”
Sắc mặt Triệu Công đại biến: “Ngươi nói cái gì?!”
Triệu Linh Phi vung trường thương trong tay lên, quân lính phía sau nàng cũng nâng đao lên, đối mặt với những kẻ đang chạy trốn.
Triệu Công hiểu rõ nhưng vẫn hỏi: “Ngươi muốn giết phụ thân ư?”
Triệu Linh Phi run run nói: “Ta cũng không muốn đi tới một bước này, ta nghe Ngôn Nhị ca dặn dò mà đợi ở đây cả đêm.
Ta hy vọng Ngôn Nhị ca đoán sai, hy vọng a phụ sẽ không hèn nhát bỏ trốn.
Ta còn nghĩ nếu nhìn thấy ngài ta sẽ không nhịn được mà thả ngài đi thật xa, để ngài đừng bao giờ trở về Đại Ngụy nữa……”
Trong mắt Triệu Công lộ vui mừng.
Nhưng biểu tình trong mắt Triệu Linh Phi lại càng thêm tuyệt vọng.
Nàng lạnh giọng nói: “Nhưng ta không làm được! Ta vừa thấy ngài là sẽ nghĩ tới biểu ca đã chết! Ngài sinh và nuôi ta nhưng ngài làm sai quá nhiều rồi! Ta là kẻ bất hiếu, ta sẽ bị người trong thiên hạ phỉ nhổ.
Đến chính phụ thân của mình còn không chịu bỏ qua thì ta cũng thấy mình quá tàn nhẫn…… Mỗi người đều cầu đại nghĩa nhưng vẫn luôn lén thực hiện ân oán cá nhân.
Ta vốn cũng sẽ vì việc riêng mà mềm lòng, nhưng dù vậy ta vẫn không thể làm được! Nếu ta thả ngài đi thì mấy chục vạn tướng sĩ đã mất mạng phải làm sao, biểu ca đã chết phải làm sao, còn có Tể tướng hai triều là Lưu tướng công phải làm thế nào? Thiên hạ bá tánh vì dục vọng cá nhân của các người mà chết nhiều như vậy, ta không thể đối mặt với bọn họ được……
Thả ngài đi ta không thể an lòng! Ngăn ngài lại là ta bất hiếu, bên nào ta cũng sai nhưng ta thà làm một kẻ bất hiếu còn hơn!”
Nàng gào lên, kích động và phẫn nộ, muốn phát tiết những khó chịu và đau khổ trong lòng mình.
Nhưng không nói hết được, cũng không đếm hết được.
Nàng đã trút bỏ vẻ ngây thơ, đã trưởng thành, đã rõ ràng biết mình muốn cái gì…… Nhưng người chết đi chẳng thể sống lại.
Những binh sĩ đứng phía sau nàng đều bi thương, ánh mắt bọn họ nhìn Triệu Công càng thêm oán hận.
Triệu Công hoảng sợ, chỉ thấy Triệu Linh Phi khóc ròng, nói một lời cuối với ông ta: “Nữ nhi tới đưa a phụ một đoạn đường cuối cùng!”
—
Triệu Công bị Triệu Linh Phi áp tải về Trường An lúc hừng đông.
Cũng vào lúc ấy, tiểu hoàng đế đã đăng cơ hai tháng lần đầu tiên vào triều từ sớm.
Thái Hậu ngồi sau rèm sợ hãi không biết phải làm sao.
Trong lòng nàng ta nghĩ gia tộc của mình có thể vì đứa con trai này mà quật khởi, nhưng khi nhớ tới cái chết thảm của Lưu Văn Cát tối hôm qua là nàng ta lại sinh ra sợ hãi với các đại thần.
Thần tử của triều đại này cũng quá cường thế, quá đáng sợ.
Cô nhi quả phụ bọn họ cần phải cẩn thận mới được.
Tiểu thiên tử còn quá nhỏ, cần người chăm sóc, trong lúc loạn lạc ấy đại nội tổng quản bên người hắn lại là Thành An.
Ông ta rơi lệ dập đầu với vợ chồng Mộ Vãn Diêu, miệng thề dù có chết cũng sẽ phụ tá tiểu thiên tử, tuyệt đối không để chuyện của Lưu Văn Cát tái diễn.
Tiểu thiên tử lần đầu tiên thượng triều cực kỳ thuận lợi.
Hắn cực kỳ thông minh, tối hôm qua lúc mọi người còn chưa kịp phản ứng thì hắn đã đi trước mà gọi “Ngôn tướng”.
Đến hôm nay lâm triều, tiểu hoàng đế mượn tay Thành An lấy thánh chỉ của tổ phụ hắn để ở tông miếu ra.
Phụ hoàng của hắn đối xử với Ngôn Thượng như xa như gần, lúc thì tin lúc thì ngờ.
Lão hoàng đế rõ ràng để lại thánh chỉ nhưng tên kia lại lợi dụng sơ hở mà chỉ cấp cho Ngôn Thượng một cái chức “Đồng Bình Chương Sự”.
Nay tiểu hoàng đế mượn thánh chỉ của tổ phụ nâng Ngôn Thượng lên làm tướng công.
Đây là mẫu hậu dạy hắn.
Hiện giờ trên triều đình lấy Ngôn Thượng làm Thiên Lôi, sai đâu đánh đó.
Nếu không phong cho chàng làm tể tướng thì chẳng lẽ tiểu hoàng đế có thể nói được đám đại thần kia sao? Hắn còn chưa nghe hiểu đám người này nói cái gì đâu.
Vi Thụ được thăng lên làm Lễ Bộ Hữu Thị Lang.
Lúc sau các đại thần bắt đầu thảo luận việc chiêu cáo chuyện của Lưu Văn Cát khắp thiên hạ, để cho bá tánh một cái công đạo.
Thế lực của thái giám phụ thuộc vào hoàng quyền, một khi hoàng đế thật sự muốn nhúng tay thì đây là thế lực dễ thu hồi nhất.
Triều đình luận tội đám thái giám, từng việc một, tất cả đều đáng tội chết.
Chiến sự cũng đã kết thúc, Đại Ngụy muốn giết A Lặc Vương để tế chúng tướng sĩ, đồng thời bọn họ cũng muốn tuyển chọn trong đám tù binh Nam Man một vị Vương giả cùng Đại Ngụy đàm phán.
Việc hòa đàm đương nhiên là phải có tể tướng và Lễ Bộ ra mặt.
Đồng thời, vì tránh cho Nam Man bởi vì khốn cùng mà không thể không đánh nhau thế nên Đại Ngụy quyết định sẽ tiếp quản kinh tế của Nam Man.
Đại Ngụy lúc này thực hiện chính sách ràng buộc với Nam Man, từ văn hóa, kinh tế, tôn giáo, quân đội và vô số phương diện khác.
Kỳ thật Đại Ngụy đã sớm có suy nghĩ này nhưng khi đó ý tưởng chưa chín muồi, lại thêm phong ba của ngôi vị hoàng đế và nghi kỵ của đế vương.
Hiện giờ Ngôn Thượng là tể tướng thì đương nhiên sẽ muốn thi hành chính sách mình đã nghĩ tới nhiều năm trước.
Tiểu hoàng đế ngồi trên ngai vị cứng như đá mà duỗi cổ dài ra cố gắng nghe các đại thần phía dưới thảo luận.
Hắn nhìn đám bá bá, thúc thúc đều vây quanh Ngôn Thượng, nhìn chàng còn trẻ nhưng cách nói năng và phong thái lại rất tốt.
Tiểu hoàng đế nghe cái hiểu cái không, chỉ cảm thấy chàng cực kỳ lợi hại.
Chàng quả là biết ăn nói.
Phong thái lại nhẹ nhàng như vậy.
Đây là phong phạm quân tử mà sách nói phải không?
Thái Hậu ngồi phía sau màn trúc thấy tiểu hoàng đế sắp tụt xuống khỏi ngai vàng đến nơi thì vội uyển chuyển ho khan một tiếng nhắc nhở.
Ngôn Thượng quay đầu lại nhìn thấy tiểu hoàng đế trợn tròn đôi mắt nhìn chằm chằm đám thần tử phía dưới.
Đứa nhỏ nhìn thấy chàng thì cả người lại vội ngồi thẳng đàng hoàng, cực kỳ ngoan ngoãn, cố gắng bày ra bộ dạng quân vương thành thục.
Nhưng hắn mới có 6,7 tuổi, cho dù cố gắng thì cũng chỉ là một đứa nhỏ.
Ngôn Thượng mỉm cười, sau khi suy nghĩ một lát chàng nói: “Nên tìm thái phó cho bệ hạ, phải đọc sách cho tốt.”
Tiểu hoàng đế sợ dượng cảm thấy mình không học vấn không nghề nghiệp thế là vội giải thích: “Ta…… Trẫm đã học vỡ lòng từ 4 tuổi, vẫn luôn ngoan ngoãn đọc sách!”
Ngôn Thượng ôn nhu nói: “Không phải đọc sách ấy mà là dạy bệ hạ làm sao làm một hoàng đế tốt.”
Sau đó chàng hơi ngừng lại rồi mới nói: “Ngoài ra, từ hôm nay trở đi ngài và Thái Hậu phải phân cung, bệ hạ không thể ngủ trong tẩm cung của Thái Hậu nữa.
Hôm nay thần sẽ cùng vài vị tướng công thảo luận việc đọc sách của bệ hạ, ngày mai sẽ sắp xếp thư đồng cho ngài.
Bệ hạ cảm thấy thế nào?”
Tiểu hoàng đế vẫn còn ngây thơ, nghe nói mình không thể cùng mẫu hậu ngủ thì có chút mất mát nhưng lại thấy Ngôn Thượng nói sẽ tìm cho mình một người bạn mới thì hắn vẫn nhảy nhót vui vẻ.
Lúc sau hắn lại chần chừ nói: “Ta có thể để A Nhạc ca ca cùng ta đọc sách không?”
Ngôn Thượng mỉm cười nói: “Bệ hạ và huynh đệ của mình tình thâm thì có gì không tốt đâu?”
Tiểu hoàng đế thích tính tình chàng ôn nhuận thế này vì thế hắn lập tức quấn lấy chàng hỏi rất nhiều chuyện hàng ngày của mình.
Hắn dần dần cảm thấy vừa lòng, dễ dàng cảm thấy phục phong thái của người dượng này.
Chờ bãi triều rồi hắn lại lén lút bắt đầu gọi Ngôn Thượng là “dượng” mặc kệ chàng từ chối bao nhiêu lần.
Thái Hậu lại có chút không vui.
Ngôn Thượng làm thế này chính là đoạn tuyệt cơ hội để nàng ta tham gia vào chính sự, sớm để cho tiểu hoàng đế rời khỏi tầm kiểm soát của nàng ta, cũng ngăn chặn con đường phát triển của ngoại thích.
Ngôn Thượng còn không cho tiểu hoàng đế dùng những người đã hầu hạ hắn từ trước mà muốn bắt đầu dạy dỗ hắn việc triều chính.
Cứ thế đi xuống sợ là tiểu hoàng đế lớn lên cũng sẽ không thân với nàng ta.
Huống chi một nhân vật như Ngôn Thượng khiến Thái Hậu ẩn ẩn cảm thấy tiểu hoàng đế giống như bị chàng hoàn toàn thuyết phục, lại cực kỳ thích chàng.
Nàng ta cực kỳ có cảm giác nguy cơ.
Nàng ta bất giác liên tiếp làm vài động tác nhỏ, muốn dẫn hoàng đế về bên người mình.
Nhưng việc này không thành, bởi vì đại trưởng công chúa Mộ Vãn Diêu đã vào cung nói chuyện với nàng ta một đêm.
Không biết bọn họ nói gì nhưng ngày tiếp theo Thái Hậu bắt đầu bế cung, ăn chay niệm phật, không hề can thiệp đến chuyện giáo dục tiểu hoàng đế nữa.
Một vị hoàng đế không lớn lên trong vòng tay của thái giám và phụ nhân hậu cung, lại được các đại thần dạy dỗ sẽ trưởng thành với bộ dáng gì là điều khiến người ta chờ mong.
—
Sau đó Đại Ngụy và Nam Man hòa đàm.
Triệu Công bị chém đầu thị chúng vào cuối tháng 8.
Triệu Linh Phi đứng trong đám người, nghe bọn họ chửi mắng không ngừng, lại nhìn thấy cha mình bị chém đầu.
Nàng xem xong thì lặng lẽ rời đi.
Vi Thụ nhận được tin muốn đi tìm thì nàng đã rời khỏi Trường An, hành tung bất định, cũng không để lại cho người khác một lời nào.
Nàng chỉ nói với Vi Thụ mình muốn tới Hà Tây.
Nàng đã nghĩ ra đời này mình muốn làm gì, muốn trở thành dạng người gì.
Cái chết của Dương Tự khiến nàng trưởng thành trong một đêm, nhưng Triệu Công chết lại làm nàng nản lòng thoái chí.
Nàng muốn trở thành du hiệp, muốn trợ giúp những người cần mình.
Nàng không có mặt mũi gặp người cũ, không có dũng cảm sống cuộc đời bình thường vì thế nàng chỉ có thể rời khỏi Trường An, đi vào nơi cát vàng mênh mông.
Trong thư gửi hắn, nàng xin lỗi hắn…… lại bảo hắn đừng đợi nàng nữa.
Nàng nhẹ giọng nói: “Hy vọng Cự Nguyên ca cưới vợ sinh con, cả đời bình an, có được hạnh phúc.
Tuy rằng ta và huynh không ở bên nhau nhưng chúng ta đều đứng trên quốc thổ của Đại Ngụy, dù không gặp lại nhưng chỉ cần biết đối phương tồn tại đã là tốt rồi.”
Vào tháng 9, Đại Ngụy tuyển được Nam Man Vương mà bọn họ hài lòng.
Ngôn Tam Lang vốn ở Hà Tây lúc này viết thư cho anh mình nói hắn muốn về Lĩnh Nam thăm người nhà.
Hắn còn gửi cho chàng rất nhiều hàng hóa mới lạ của Tây Vực.
Trong lúc cực kỳ bận rộn Ngôn Thượng vẫn gửi thư tới Kiếm Nam và Lĩnh Nam.
Chàng hỏi thăm Ngôn Hiểu Chu như thế nào, nếu nàng vẫn không buông được khúc mắc thì chàng muốn đón em gái tới Trường An ở cùng vợ chồng mình mấy năm.
Lĩnh Nam gởi thư tới nói Ngôn Hiểu Chu có trở về một chuyến, sau khi nói chuyện với cha Ngôn một đêm nàng lập tức đi Liêu Đông dưới sự bảo vệ của Hàn Thúc Hành.
Ngôn Thượng nhìn thấy thư thì trong lòng lập tức chua xót.
Liêu Đông là nơi người nhà Dương Tự bị sung quân.
Em gái chàng nhìn thì bình tĩnh, cũng không rơi một giọt nước mắt nào nhưng Hiểu Chu cũng không thể bỏ được Dương Tự.
Trước sau nàng vẫn nhớ mãi người này.
Chàng viết cho Hàn Thúc Hành một bức thư dặn hắn không cần quản Hiểu Chu làm gì, chỉ cần bảo vệ nàng an toàn là được.
Đối với đứa em gái này chàng chẳng thể giúp được gì nữa, bởi vì chàng cũng chẳng thể phân thân.
Mấy ngày gần đây thân thể Mộ Vãn Diêu luôn không thoải mái, cứ dưỡng bệnh suốt.
Chàng vừa vội việc triều chính, hòa đàm giữa Đại Ngụy và Nam Man rồi ngày ngày còn bị Mộ Vãn Diêu bắt uống một đống thuốc.
Quan tâm của chàng với người thân cũng chỉ có thể tới đây.
Vào tiết Trùng Dương, dưới sự bức bách của Mộ Vãn Diêu, Ngôn Thượng thật vất vả lắm mới có một ngày nghỉ ngơi.
Một ngày này chàng đã định trước là sẽ đi tế anh linh của lão sư mình là Lưu tướng công.
Lưu gia lập mộ chôn quần áo và di vật cho Lưu tướng công ở ngoại ô Nam Sơn, đây là nơi Ngôn Thượng nhất định phải đi bái tế.
Mộ Vãn Diêu vốn đã biết nhưng sáng sớm thức dậy nàng lại cảm thấy không thoải mái vì thế không đi nữa mà để chàng đi một mình.
Ngôn Thượng ngồi bên giường thấy nàng hơi thở thoi thóp, sắc mặt tái nhợt thì đau lòng nói: “Nàng còn nói thân thể ta hiện giờ không tốt, nhưng sau khi trở lại Trường An ta không hề sinh bệnh còn nàng ngược lại vẫn luôn ủ rũ.
Để ngự y tới khám xem sao nhé.”
Mộ Vãn Diêu gác tay trên trán hừ hừ nói: “Không cần! Chỉ là bệnh cũ, có lẽ khí hậu không quen nên ta mới vậy, đợi ngủ dậy là tốt rồi.”
Ngôn Thượng hiếm lạ hỏi: “Từ nhỏ nàng đã lớn lên ở Trường An mà còn không quen khí hậu ư?”
Mộ Vãn Diêu thấy chàng ngồi bên giường ôn nhu nói chuyện, rõ ràng là muốn cùng nàng lải nhải mãi.
Nàng đã quá quen với cảnh này nên chỉ lẩm nhẩm đẩy eo giục chàng mau đi: “Đã biết, đã biết! Cả ngày chàng đều lải nhải không ngừng, thực dông dài.
Chàng mau đi tế bái lão sư của mình đi, chờ chàng trở về hẳn là ta đã tốt hơn rồi.
Thân thể của ta chẳng lẽ ta còn không rõ ràng ư?”
Ngôn Thượng rất bất đắc dĩ, biết nàng không muốn khám bệnh vì nhiều năm uống thuốc khiến nàng ghê tởm, nếu chỉ là bệnh nhỏ thì nàng sẽ kiên trì không khám.
Trong lòng chàng cân nhắc chờ qua hôm nay mà nàng vẫn mệt mỏi không dậy nổi thì chàng sẽ phải bức bách thỉnh ngự y tới trong phủ một chuyến.
Sau đó chàng còn dặn dò thị nữ và Thu Tứ chăm sóc công chúa rồi mới dây cà ra dây muống mà đi.
Mưa thu kéo dài.
Ngôn Thượng đứng trước bia mộ của Lưu tướng công.
Chàng đoan chính mà tế bái lão sư của mình, cả người trầm mặc an tĩnh.
Sau khi thắp cho lão sư ba nén hương, chàng thấp giọng nói tới những việc xảy ra trong triều mấy tháng nay, nói các sư huynh ở trong triều chăm sóc mình thế nào.
Nói đến chỗ đau lòng chàng phải cố lắm mới nén được chua xót.
Chàng chỉ muốn nói chuyện tốt, không muốn nói chuyện xấu.
Phía sau đột nhiên truyền đến một giọng nữ: “Ngôn Nhị ca.”
Ngôn Thượng quay đầu lại, dây cột tóc phất qua tay áo, lông mi chàng dính giọt mưa thu lành lạnh.
Khí chất trong trẻo của chàng khiến Lưu Nhược Trúc và chồng nhìn thấy đều cảm giác nao nao.
Lưu Nhược Trúc nhìn thấy chàng thì hơi ngẩn ra, lại hoảng hốt nhớ tới lần đầu tiên gặp chàng.
Mắt nàng nóng lên, hơi mỉm cười nói: “Mặc kệ đã qua bao nhiêu năm nhưng ta vẫn có thể nhớ được bộ dạng của Ngôn Nhị ca lần đầu tiên đứng trước mặt gia gia.”
Ngôn Thượng và Lâm Ngôn hành lễ với nhau sau đó hỏi hai vợ chồng họ: “Hai người mới về Trường An ư?”
Lâm Ngôn đáp: “Ta và phu nhân mới về hôm qua.
Chúng ta trở về tế bái gia gia, đợi nghỉ ngơi hai ngày chúng ta sẽ về Hà Tây.”
Ngôn Thượng hỏi: “Huynh có muốn về Trường An làm quan không?”
Trên khuôn mặt lãnh đạm của Lâm Ngôn có ý cười, nói: “Ngôn tướng đừng nhọc lòng.
Bên ngoài thực ra cũng khá tốt…… Ta có thể cùng Nhược Trúc đi thu thập thêm sách cổ, bảo vệ những kiến thức trăm năm ấy……”
Ngôn Thượng trầm mặc, sau một lúc lâu chàng mới nhẹ giọng nói: “Chuyện huynh và Nhược Trúc đốt sách ta đã biết…… Tất cả đều đốt sạch, không giữ được cuốn nào ư? Hai người đã vất vả rồi.”
Lâm Ngôn lắc đầu đáp: “Tâm huyết mấy năm đều đã đốt hết, quả là luyến tiếc vô cùng nhưng đều vì cứu lê dân.
Ta và Nhược Trúc đều vui vì có thể làm chút gì đó, dù gì thì đồ có quý đến mấy cũng không bằng mạng người.”
Lưu Nhược Trúc vẫn luôn lẳng lặng nghe chồng mình và Ngôn Thượng nói chuyện.
Nàng nhìn bia mộ, trong đầu nhớ tới dáng điệu, nụ cười và giọng nói của ông nội.
Nàng lại thấy mắt mình chua xót, nhưng không muốn khóc.
Nàng quay đầu, cố mượn tươi cười giấu đi lệ trên khóe mắt sau đó cười nói với Ngôn Thượng: “Ngôn Nhị ca biết không, ngày xưa gia gia và các vị tướng công đã từng đánh cuộc về huynh.
Hiện giờ xem ra bọn họ đều thua rồi, huynh mau xuống núi tìm các vị tướng công lĩnh thưởng đi!”
Ngôn Thượng ngạc nhiên hỏi: “Cái gì?”
Lưu Nhược Trúc cười khanh khách nói: “Trương tướng công bọn họ đánh cuộc đến năm huynh 30 tuổi có thể lên làm Trung Thư Xá Nhân, còn gia gia lại đánh cuộc lúc huynh 30 tuổi có thể lên làm tể tướng.
Năm nay huynh mới 27 đã là Tể tướng rồi, vậy chẳng phải bọn họ đều thua chỉ có huynh là thắng ư?”
Ngôn Thượng ngẩn ra sau đó dời mắt nhìn bia mộ lặng lẽ phía sau.
Nó đứng trong mưa gió, lặng yên nghiêm túc như bộ dạng của Lưu tướng công.
Một lát sau chàng nhẹ giọng nói: “Loại đánh cuộc này ta có thắng cũng có ý nghĩa gì đâu.”
Nụ cười trên mặt Lưu Nhược Trúc nhạt dần, sau đó nàng cũng trầm mặc.
Cách một lát nàng lại nhẹ giọng: “Thắng là có ý nghĩa rồi.
Đại Ngụy cần huynh, chúng ta cũng đều cần huynh…… Gia gia trên trời có linh thiêng cũng sẽ vì huynh mà vui vẻ.
Học trò của gia gia lợi hại như thế thì dưới hoàng tuyền hẳn ông đang lôi kéo mấy vị tướng công khác uống rượu, đắc ý nói học trò của mình tốt.”
Trong nháy mắt nàng đã rưng rưng, vừa nói vừa cười: “Gia gia tuy bảo thủ nhưng bản tính ông vẫn rất tinh nghịch.”
Nàng nói đến nhiều chuyện cũ của ông mình, Lâm Ngôn bung dù đứng bên cạnh che cho nàng, còn Ngôn Thượng có tôi tớ phía sau bung dù che cho.
Dù vậy cả hai người đều dính nước mưa nhưng không ai đánh gãy lời nàng.
Núi xanh vẫn đó nhưng người chết không về, người mới rồi cũng trưởng thành.
Có lẽ đây chính là ý nghĩa.
—
Đêm đó Mộ Vãn Diêu tỉnh ngủ rồi mới biết phò mã đã trở lại.
Thị nữ nói Ngôn Thượng có vào thăm nàng một chút rồi đi ra ngoài khiến lòng Mộ Vãn Diêu hơi trầm xuống.
Nàng ngủ một ngày nên thân thể đã không còn quá khó chịu, vì thế nàng xuống giường rửa mặt chải đầu, tính toán đi gặp Ngôn Thượng.
Hôm nay chàng đi tế bái lão sư, lại gặp được vợ chồng Lưu Nhược Trúc vì thế lòng chàng hẳn không dễ chịu gì.
Mộ Vãn Diêu thấy Ngôn Thượng đang ngồi trên hành lang ở hậu viện.
Chàng vẫn mặc bộ quần áo màu lá trúc như khi sáng, tóc đã hơi loạn, dây cột tóc rơi xuống trên vai.
Chàng ngồi một mình bên bàn, hai mắt hơi nhắm lại, cứ vậy rót cho mình một chén rượu.
Gió thổi lồng lộng, người như tranh vẽ.
Ngôn Thượng đang uống rượu thì chén rượu lại bị người ta cướp mất.
Chàng nghiêng đầu thấy Mộ Vãn Diêu đã ngồi xuống bên cạnh mềm giọng mắng mỏ chàng: “Chàng đúng là biết học thói hư, hiện giờ còn học nam nhân khác uống rượu giải sầu.
Thối hoắc, tối nay chàng đừng có mà lên giường ngủ!”
Khóe mắt Ngôn Thượng vì uống rượu mà đỏ ửng lên, màu da trắng nõn cùng môi hồng khẽ nhếch càng khiến người ta nghiện.
Tính tình chàng rất tốt, cứ vậy tùy ý để nàng không vui mà cướp mất chén rượu còn mình chỉ chống trán sau đó cười nhẹ nói: “Ta không uống nhiều, chỉ uống giải sầu một chút thôi.
Ta chỉ uống một lát thôi chứ không uống say.”
Mộ Vãn Diêu: “Nghe chàng gạt ta kìa!”
Ngôn Thượng cười hỏi: “Ta lừa nàng làm cái gì? Nàng ngửi xem, mùi rượu trên người ta có nặng không? Ta thật sự chỉ uống một chút, uống đủ năm ly ta sẽ không uống nữa.”
Mộ Vãn Diêu ngẩn ra, nàng chun mũi ngửi ngửi cổ chàng, còn chàng thì ngửa cổ lùi ra sau.
Thấy nàng như con mèo nhỏ rúc đến là chàng không nhịn được cười, ôm nàng vào lòng.
Mộ Vãn Diêu thoáng chốc ngửi được mùi rượu thế là đột nhiên thấy ghê tởm, vội nín thở nhịn cảm giác kia xuống.
Đợi bớt khó chịu nàng mới đẩy chàng ra: “Thối muốn chết, đừng ôm ta! Chàng uống mấy chén rồi?”
Ngôn Thượng thực nghe lời đáp: “Chỉ uống ba chén.”
Mộ Vãn Diêu suy nghĩ một chút sau đó rộng lượng để chàng rót rượu rồi nói: “Ta uống cùng chàng vậy.
Nam nhân ấy mà, kỳ thật có đôi khi uống rượu cũng được, coi như phát tiết một chút cũng tốt.
Hôm nay chàng nhìn thấy cháu gái của lão sư mình, lại nghĩ tới lão sư và nhiều người khác nên tâm tình mới không vui đúng không?”
Ngôn Thượng thấp giọng đáp phải.
Thấy chàng như vậy, Mộ Vãn Diêu cũng không cản chàng uống rượu nữa.
Nhưng tửu lượng của Ngôn Thượng quả là không tiến bộ được bao nhiêu.
Chàng chỉ uống thêm một chén mà cả