Cùng đi lên Đà Lạt với Samuel Định là Manuel Ngô, Judas và hai anh em họ Võ.
Người mừng nhứt khi hay tin này là Vệ Thương vì cậu rất thích tụ tập đông vui; cũng may tòa tư dinh của cậu có rất nhiều phòng ngủ nên ai nấy đều có chỗ nghỉ ngơi riêng tư.
Bà quản gia niềm nở rước đoàn khách của cậu Út xuống phòng ăn nhập tiệc.
Bà hơi bối rối vì đoàn khách này nửa theo Tin Lành, nửa theo Công Giáo, nửa "lưng lửng ở hai bên" nhánh Cơ Đốc, nửa bên Đạo Ta - Tức "Tứ Ân Hiếu Nghĩa", thành thử ra bà đã phải đắn đo rất nhiều khi soạn thực đơn chiêu đãi.
- Ủa gì kỳ vậy? Sao có mấy món trong Lễ Tạ Ơn? - Judas nói tới đó, không kiềm được mà che miệng cười thật lớn.
- Mô có phải mùa Vu Lan mà vú đi nấu chè cúng Phật rứa? - Võ Kiến Tường cũng cười đến rũ người.
Manuel Ngô cũng góp giọng:
- Sao có món ăn Do Thái nữa vú?
Vệ Thương mặt mày méo xẹo mà nhìn vú trách cứ:
- Vú, vú tính tổ chức đại hội "Hòa Đồng tôn giáo" hay gì?
- Con thương vú, thông cảm giùm vú, tại nhiều đức tin quá thành thử ra vú hổng biết soạn thực đơn sao hết.
Samuel Định cười khổ:
- Thì vú nấu bữa cơm bình thường được rồi vú ơi.
Nào gà tây rô-ti, bánh mì không men, chè trôi nước,...!
- Bữa ni chưa tới Rằm, nên con nỏ ăn củ lợt mô.
- "Củ lợt" là củ chi rứa con?
- Ý ảnh nói là anh hổng có ăn đồ chay đâu.
- Cho phép vú uống thuốc trợ tim xíu nghen Thương.
Nguyên đám ôm bụng cười ngặt nghẽo.
- Vú cũng trộng tuổi rồi, răng iêng ghẹo ác rứa?
- Ai dủ "bụ" nói lái chi?
Judas nghe cư sĩ Phật Gia xứ Huế nói chuyện mà gã có cảm tưởng đang nghe tiếng Latin trộn với tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.
Dù đã cố gắng hết sức, gã vẫn không thể nào nắm được nội dung của cuộc hội thoại là gì.
Trong lúc đợi đầu bếp chế biến thêm vài món, Vệ Thương dẫn mọi người lên lầu chọn phòng.
Thằng bạn đồng tính của cậu vẫn ở một mình trong phòng cũ; còn những người kia thì chia làm hai nhóm, mỗi nhóm chọn một phòng trên tầng áp mái.
Góc bên phải của tầng áp mái dẫn thẳng ra sân thượng: Nơi đây được xây dựng thành một vườn treo khá lớn, có chỗ để làm tiệc nướng BBQ khi thời tiết thuận lợi và một góc ngồi sưởi ấm có lọng che là vòm cây sanh uốn kiểu với hồng leo rất đẹp.
Còn bên trái là ba phòng ngủ có luôn nhà tắm và vệ sinh riêng; mỗi căn có diện tích bằng nhau và đều có cửa sổ trổ ra con lộ vắng tanh, quanh năm rì rầm tiếng thông reo.
Nằm đối diện với cửa lớn là một cái giếng trời cỡ trung; bên trong giếng trồng một cái cây ưa mát và chịu khô hạn, ngoài ra không còn tiểu cảnh gì nữa.
Để cho gia chủ có thêm không gian tiếp khách, vị trí trống trải này được biến thành phòng khách: Với một bộ bàn - ghế sô-pha bọc nhung gấm màu huyết dụ đặt ở trung tâm, phía trên đó treo đèn chùm pha lê phong cách Bán Cổ Điển và cất một lò sưởi bằng than củi ở bức vách tay mặt - Bên trên bày biện một vài món đồ trang trí và lưu niệm nho nhỏ, đơn giản; chưa kể đến là chiếc TV LCD treo ở phía trên và chính giữa lò sưởi, cùng dàn loa được gắn ở hai đầu bức tường cùng phía.
Và đâu mặt với bộ bàn - ghế sô-pha là cánh cửa dẫn ra ban-công; đứng ở ban-công này có thể nhìn thấy một khoảng rừng thông thâm u luôn mịt mờ sương khói.
Sau một hồi bàn bạc, hai anh em họ Võ ở căn đầu tiên, căn giữa là của hai anh em họ Ngô và căn chót thuộc về Judas - Gã trai Nam Mỹ không ở chung với người bạn Mục sư và anh họ của cậu ấy như đã định, vì căn chót nằm gần cánh cửa dẫn ra ban-công nên gã mới muốn ở riêng.
Samuel Định chỉ tay về phía cánh cửa xếp có gắn tranh kính vẽ hình "Mai - Lan - Cúc - Trúc" trên nền màu giả đồng mà hỏi:
- Sao chỗ này lại phải che chắn lại vậy Thương?
- Dạ, vì nó dẫn tới phòng riêng của vú, gia đình thím đầu bếp và cô giúp việc, phòng giặt - ủi kiêm luôn phơi đồ và cất trang phục, mùng - mền - drap giường - vỏ gối - màn cửa và dụng cụ bảo hộ khi làm việc.
Thành ra kiến trúc sư tư vấn nên tách bạch không gian giữa gia chủ và người làm.
Phòng riêng của bà quản gia nằm ở đoạn hành lang nối liền hai khu vực gia chủ và gia nhân.
Cửa phòng đối diện với giếng trời nên kiến trúc sư khuyên rằng nên lắp chấn song để phòng trường hợp bà bị mộng du hay sẩy chân mà té xuống dưới.
Mặc dù nó làm giảm mỹ quan và hạn chế tầm nhìn nơi khoảng thông tầng, nhưng bù lại bớt lo lắng vô cớ hơn.
Lối chừng hai tiếng sau, bà quản gia mới đi thang máy lên mà mời nguyên đoàn xuống ăn trưa.
Vừa hay ai nấy đều tắm gội và thay đồ mới.
Bàn ăn giữ lại món gà lôi rô-ti, bánh mì không men và vài dĩa đồ chay.
Thể theo lời khuyên của hai me - con thím La Lan, bữa cơm có thêm món bào ngư nướng mỡ hành, ốc hương luộc, tôm hùm đất sốt Cajun, cơm trứng tráng kiểu Nhật Bản, canh sườn nấu với trà xanh và ăn kèm với bánh quẩy, chim cút chiên bơ và trứng cút lộn xào mắm me.
Vệ Thương cười khổ:
- Mình muốn vú nấu một bữa cơm bình thường, nói một hồi thành "cơm tiến vua" luôn!
Sau giờ ăn, nguyên đoàn ngồi nghỉ hơn nửa tiếng mới có thể xách đàn guitar mà ra vạt đồi gần đó ca hát và ngắm cảnh.
Người biểu diễn đầu tiên là Samuel Định, gã chọn bài "Đà Lạt cô liêu" của nhạc sĩ Lam Phương, một bản nhạc về xứ sở sương mù thật hay nhưng kém nổi tiếng hơn bài "Thành phố buồn" do ông sáng tác; "hai đứa con" cùng "cha" song số phận thật khác biệt!
Tới phiên Năm Tường, anh trình bày ca khúc "Má hồng Đà Lạt" của Minh Kỳ - Lan Anh; đây là một sáng tác của nhóm nhạc sĩ Lê - Minh - Bằng.
Vệ Thương hóa thành "Hồ Than Thở":
- Ca bài nào sung sung chút đi mấy anh.
Năm Tường ghẹo:
- Vậy hát nhạc Tây Du Ký nghen?
- Nghe hổng có vô...!Cho bài nào nhạc ngoại lời Việt mà sung sung xíu đi mà.
- "Happy Together" của đôi nhạc sĩ Garry Bonner và Alan Gordon: Một lời Việt cùng tên với bản gốc do Don Hồ ca; lời Việt khác của nhạc sĩ Đan Hà, bản này chỉ có song ca trước năm 75 Minh Xuân - Vy Vân trình bày.
Hát hò hoài cũng mệt, nguyên nhóm bèn ngồi ngắm trời mây và nghe thông reo.
Khoảnh rừng này mới trồng hồi năm 2016 nên chưa cao lớn lắm; tán lá cũng không dày mấy, chỉ lúp xúp vài tầng.
Thảm cỏ xanh rì hãy còn thơm hương sương mai, trên đó đọng lại vài cánh hoa lìa cành đã dần héo úa.
Út Thanh hỏi:
- Mày định đi quân dịch vào đầu năm tới hả?
Út Thương gật đầu:
- Chắc là Thủy Quân Lục Chiến.
Tao muốn vô Không Quân lắm nhưng không hội đủ điều kiện sức khỏe để tham gia.
Nhân đó, Vệ Thương nhờ những "cựu quân nhân" tư vấn kinh nghiệm đi quân dịch cho mình hay.
Tuy đã nghe hai anh ruột kể song cậu vẫn chưa nắm rõ được lối sống trong quân ngũ.
Vậy là lần lượt từng người thuật chuyện đi quân dịch của mình.
Vui buồn lẫn lộn, đau thương và hờn tức cũng có đầy.
Judas khuyên:
- Theo tôi thấy cậu nên vô Vệ Binh Quốc Gia thì hơn, theo Thủy Quân Lục Chiến cực dữ lắm.
- Nhưng mà em ngán ở chỗ hễ có chuyện gì cần là sẽ có lịnh tổng động viên, không như bên Thủy Quân Lục Chiến.
Judas nghe cách nói chuyện của Vệ Thương hãy còn non nớt quá chừng nên phì cười kể:
- Tôi có rất nhiều người bạn ngoại quốc như Gấu Nga, Ngao Tây Tạng, Thạch Xà,...!Mỗi người mỗi tính, và rất khó chiều lòng họ.
Vệ Thương sáng trí hiểu liền:
- Vậy em giống ai trong số họ?
- Cậu chẳng giống ai hết.
Vì họ làm chủ cuộc đời họ và không đợi ai đưa ra ý kiến cho mình.
Nói nôm na, họ sống độc lập như những con thú hoang dã vậy.
- Vậy thì em phải làm cách nào để được như họ?
- Cậu phải mất mát về mặt tinh thần thật lớn lao thì mới có cơ hội trở thành họ.
- Ây da...
Vệ Thương lo lắng quàng tay qua vai anh Năm Tường mà hỏi:
- Sao vậy anh Tường?
- Tự nhiên bụng anh đau quá.
Anh vô trong nhà lấy thuốc uống nghen?
- Dạ.
- Có cần tau đi chung không?
- Thôi khỏi...
Lời vừa dứt, Năm Tường đã chạy tốc vô nhà.
- Ngụy hiện rứa! Hắn bị đau bụng thì mần răng có thể chạy nhanh cái thế nớ.
Bởi vì Năm Tường nói dối, anh muốn tìm cớ để lánh mặt anh họ.
Thành ra thay vì đi vô nhà vệ sinh, anh lại lên sân thượng ngồi xích đu và gọi điện cho Đức Giám Mục La Viễn Phương.
- Thầy đây, có chuyện gì vậy Tường?
Năm Tường vào đề luôn:
- Ảnh nói ảnh người Huế mà lại nói người Huế ăn bánh tày trong dịp Tết.
- Không phải sao?
- Dạ cũng có, nhưng phần đông chuộng bánh tét như trong Nam hí.
Còn bánh tày thường trong dịp giỗ quải hơn.
- Con có thử ADN chưa?
- Dạ rồi.
Năm chỗ.
Xác quyết là cận huyết thống.
- Cậu đó có điều chi bất thường không?
- Dạ, ảnh hay tham gia các đoàn thiện nguyện do Tứ Ân Hiếu Nghĩa tổ chức, thành ra hay vắng nhà và đi xa lắm.
- Đi rồi có tiền hay là không?
- Dạ có, trưởng nhóm trả tiền cho.
- À...
Sau một hồi im lặng, La Viễn Phương mới lên tiếng khuyên học trò nên thay đổi hết mật khẩu và cất giữ tư liệu ở chỗ khác, đặng đề phòng Võ Kiến Hữu đánh cắp dữ kiện cá nhân rồi đi làm chuyện bất chính.
Xong phần con nuôi, ông bắt qua chuyện khác:
- Thầy gởi con hai ngàn.
Đà Lạt chắc lạnh lắm, nên nếu thằng Út muốn mua áo len thì con mua giùm cho Thầy, cứ nói dối là mua quà sinh nhật trước để nó khỏi sanh nghi.
Năm Tường cười phá lên:
- Chúa ơi, trên này đâu có lạnh mấy đâu Thầy.
Trưa nắng còn phải bật máy lạnh lên nữa kìa.
- Vậy hả?
Rồi ông thở dài thườn thượt và giãi bày tâm sự:
- Thầy thương nó vô cùng.
Mà nó bị vậy thì đành phải chịu vậy chứ biết sao giờ...
- Anh Ba Đức sao rồi Thầy?
- Cũng bình thường.
Nhiều lúc nó muốn tới ủng hộ tiệm cắt tóc của thằng Út nhưng sợ Thầy buồn nên không dám ghé.
Năm Tường ngập ngừng bày tỏ ý định mở nhà giảng ở Huế.
- Chúng ta chỉ là một Hội Thánh Tin Lành nhỏ xíu xìu xiu.
Gắng gượng lắm mới duy trì được tới bây giờ.
Thành ra Thầy không ủng hộ ý kiến lập nhà giảng ở Huế của con.
- Con hiểu, Hội chúng ta là hội tự túc, tự sinh - tự diệt, không dựa vào một nguồn thu nào từ Cơ Đốc Nhân...
Tiếng gọi của Vệ Thương đã cắt ngang cuộc trò chuyện của hai thầy trò Tin Lành.
Năm Tường vội vàng tắt máy rồi day lại nhìn người trai mới vừa dạm bước đôi mươi:
- Có chuyện gì vậy Thương?
- Mình chia thành hai nhóm đánh vũ cầu.
Hễ bên nào đánh hụt nhiều là bên đó thua.
- Nhưng có bảy mạng sao chia đều?
- Anh yên tâm đi.
Em có cách rồi.
"Người Việt trầm lặng" hôm bữa được rủ vô chơi chung.
Cả Samuel Định và anh ta đều không ai tỏ ra là có quen biết với nhau, nên Út Thương - Út Thanh cảm thấy vô cùng thoải mái.
Nhờ lợi thế chiều cao và sức bền mà phe của Judas, Manuel Ngô, Samuel Định và Cương thắng lớn.
Bên thua ngậm ngùi xuống bếp rửa chén với hai me con La Lan.
...
Samuel Định muốn tìm chút yên tĩnh nơi bờ hồ Than Thở, nhưng không gặp, đành ra thác Cam-Ly.
Mà tới nơi, cũng chẳng thấy mô, lại phải dời gót sang Thung Lũng Tình Yêu.
Và hệt như hai chỗ trước, đâu đâu cũng thấy bóng du khách và dân bản địa: Lớp ồn ào chụp ảnh, lớp chèo kéo mua đồ.
Hết cách, gã phải cuốc bộ lên nhà thờ Con Gà để mong cầu được hưởng bầu thanh tịnh thường thấy ở Thánh đường.
Sau một hồi cò kè trả giá, rốt cuộc chàng lãng tử cũng thuê được chiếc xe đạp.
Gã cười ngất khi nghe cô chủ nói giọng Bắc càu nhàu, "Đẹp trai mà keo như quỷ." Đẹp trai cách mấy thì cũng phải đi làm mới có cái ăn, đâu phải tiền rơi từ trên trời xuống mà tùy tiện phung phí lung tung.
Trên Đà Lạt bây giờ, theo cảm nhận của Samuel Định, khó lòng mà thế hệ nhạc sĩ thuộc dòng nhạc Vàng năm xưa còn có cảm hứng sáng tác ra một bài ca bất hủ nào.
Ở đâu cũng có bê-tông cốt thép, rừng thông mờ sương đã hóa thành "đầu hói sổ mũi", rác rến và nạn quấy nhiễu du khách nhiều không sao kể xiết.
Cái đẹp của thành phố này đến từ sự hoang dại và trong lành của thiên nhiên, nét văn hóa và lối sống của người dân bản địa cùng tiếng thông hát - suối reo - thác đổ hàng giờ liền không ngơi nghỉ; và cái du khách cần "Chỉ chừng đó thôi".
Ánh nắng ban mai ngày Hè Đà-Lạt đã không còn dịu dàng như ngày còn ngàn thông.
Mới đi được một chốc mà Samuel Định đã vã mồ hôi hột.
Cũng may chai dầu thơm đã "che chắn" mùi cơ thể giùm gã.
Những cung đường vỉa hè chật chội khách bộ hành và gánh hàng rong.
Mấy lần chiếc xe đạp của gã xém lủi vô quầy bán của người ta, khiến cho gã đành phải chạy xuống dưới lộ.
Dầu đã cố gắng hết sức nhưng chiếc xe đạp của gã vẫn trở thành miếng mồi ngon cho mấy chiếc xe gắn máy và bốn bánh "hun đí*".
Nghe tiếng hò của Hùng Cường trong bài "Về thăm xứ lạnh" do chính ông sáng tác, Samuel Định hấp tấp dừng xe.
Có lẽ gã sẽ gặp lại "người muôn năm cũ" ở đây.
Người đó là một cô gái hãy còn rất trẻ mặc quần lính rằn ri và áo ba lỗ trắng, chân đi giày thể thao giả kiểu bốt-đờ-sô, dáng dấp thon thả và nét mặt hết sức thanh tú.
Quán cà-phê của gia đình cô vẫn còn lưu giữ kiến trúc ngày mới mở tiệm, thành ra mùi thời gian luôn phảng phất đâu đây.
- Uống chi anh?
- Dạ?
Cô che miệng cười khúc khích, rồi nháy mắt nhắc nhở:
- Quán cà-phê anh ơi.
- À...!Cho tôi xin cái thực đơn.
Vẫn điệu cười tươi như màu Mimosa trong nắng, cô nàng day mặt về phía tấm bảng và chỉ tay lên mà nói:
- Ghi ở trên hết rồi.
Samuel Định gãi đầu cười ngượng, rồi biểu:
- À...!Cho tôi một ly...!Espresso hột gà.
Trứng chín một chút, xin đừng sống quá.
Tính tiền trên máy xong, cô ngoảnh vào trong gọi:
- Me ơi, làm cho khách một ly Espresso hột gà! Trứng chín một chút, đừng sống quá nha...
- Cô là dân Đà Lạt chính gốc.
Cô nhướng mày trong khi vẫn giữ nụ cười thật tươi trên môi:
- Tại sao anh biết?
- Vì cô gọi "Me" chứ không gọi "Mẹ".
Cô phì cười:
- Coi chừng anh lộn "gốc cây" đó.
- Nhìn cô tôi tự dưng nhớ tới bài "Mimosa" của ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trường Hải.
Đôi má cô phơn phớt hồng như sắc mây bình minh Đà Lạt, cô ngượng nghịu hỏi lại:
- Kỳ dạ?
- Vì sắc diện cô rất tươi tắn và hạnh phúc.
Kể từ ngày tôi vào đời, tôi không còn được mang vẻ mặt giống như cô nữa.
- E hèm...
Cha của cô chủ quán đằng hắng một tiếng, rồi cúi mặt nghe livestream tin tức tiếp.
Tiễn chân người khách để tóc hai mái như Cổ Thiên Lạc hồi trẻ xong, cô quay qua bắt đền cha mình:
- Cha kỳ quá hà...!Con gái của cha lâu lâu được trai đẹp khen một tiếng mà cũng hổng cho nữa...
Ông già nhăn mặt xua xua tay:
- "Tốt mã rẻ cùi" bây ơi.
- Chớ sao cha nói hồi đó me lấy cha vì cha đẹp trai?
Ông già chột dạ cự:
- Tao khác, cái cậu đó khác.
Rồi ông lên gân trách:
- Chưa có chồng mà mày binh thằng ngoài lề chằm chặp, mốt tao với me mày ra rìa luôn.
- Con hổng lấy chồng đâu, con ở với cha me suốt đời luôn.
Bà già cười khẩy:
- Mày ăn bận như vầy thì thằng nào dám lấy mày hả con?
- Thằng tướng, tá, sĩ, úy; không thì cũng phải là Vệ Binh Quốc Gia.
- Ừ, chứ dân thường sao dám chịu nổi con võ sư như mày.
Cô vùng vằng:
- Thôi, con lên nhà thờ Con Gà chơi đây.
- Vô thay đồ liền cho tao! Lên thăm Chúa mà ăn bận như vậy hả?
- Con đâu có vô thăm Chúa, con đi vòng vòng chơi thôi mà.
- Thôi mày đi đâu thì đi khuất mắt tao đi...!Nó giống ai mà bướng như bò...
- Nó hổng có giống tui...!- Nhìn thấy vợ mình phừng phừng lửa giận, ông già cười hề hề chữa lời.
- Mà cũng hổng giống mình luôn.
Chắc nó học từ ai đó thôi.
Trong lúc đôi vợ chồng đang hờn mát nhau, cô con gái yêu của họ đã leo lên chiếc xe Vespa sơn màu họa tiết vỏ cây thông mà dông mất.
Đà Lạt đã thôi buồn thỉu buồn thiu sau năm 2000.
Sau cột mốc đó, một Đà Lạt e ấp dịu dàng và đằm thắm đã bị thay thế bằng một Đà Lạt bừng bừng sức sống nhưng rất kém duyên.
Cô sinh ra và lớn lên trong lúc Đà Lạt còn là nó, nên thấu hiểu và thương xót cho từng cảnh sắc nơi đây.
Nhà thờ Con Gà cũng vậy, còn đâu một "Giáo đường im bóng" vang lên "Bài Thánh Ca buồn" chất chứa những mối tình dang dở vì một lần nhàn du đến "Đà Lạt mộng mơ"?
Do diện tích thành phố nhỏ xíu nên đường sá cũng bé tẹo theo.
Đã vậy khách thập phương viếng thăm rất đông nên không gian còn chật hẹp bội phần.
Đi đâu cũng ngửi thấy mùi người, mùi xăng xe, mùi khói bụi, mùi kim tiền và hằn học; tự dưng cô thèm được trở lại cái thuở lác đác khách nhàn du và còn vang tiếng lộc cộc của những cỗ xe ngựa, để cô được cảm nhận hương thơm của ngàn hoa, cỏ xanh và rừng thông.
Về phần Samuel Định, gã vẫn chưa tới nhà thờ Con Gà; vì một tin nhắn của người đồng nghiệp mà chặng đường của gã phải chuyển hướng.
Theo như nguồn tin mà người này lấy được: Nạn nhân bị bề hội đồng ở tòa nhà do gia đình Lê Hoài Sang làm chủ hóa ra là má-mì chuyên cung cấp gái gọi vị thành niên; có lẽ vì mâu thuẫn tiền bạc nên con nhỏ này đã bị chính đồng bọn thuê người thanh toán.
Hèn chi mà nó tỉnh queo, không hề đau khổ hay suy sụp như những nạn nhân bị hãm hại mà gã đã từng tham gia giúp đỡ.
Nếu đúng như những gì mà người săn tin đã báo, thì chủ quán cà-phê "Sóng Nhạc" đang cận kề nguy hiểm và cái chết.
Và nếu gã đoán không lầm thì nó muốn mượn cái bầu để trốn tội.
Trong khi ấy, những người bạn của Samuel Định đang tản ra làm việc riêng trong tòa biệt thự nhà họ Vệ.
Võ Kiến Hữu đang nghe một khúc tình ca xứ Huế mang tên "Nón bài thơ" của nhạc sĩ Anh Tuấn qua phần trình bày của nữ ca sĩ Trung Kỳ trước năm 75 Ngọc Thanh, trong khi đang ăn bánh flan bí đỏ.
Bên cạnh anh, em họ đang ngồi soạn bài giảng cho buổi Thánh Lễ tổ chức vào ngày thứ Năm.
Vệ Thương, La Yến Thanh, Mười Anh và Judas đang chơi game Nintendo.
Họ thi đấu theo kiểu đánh đôi.
Ai thua phải chịu vẽ mặt hề.
- Iêng có điện thoại kìa.
- À...!- Võ Kiến Hữu hờ hững đáp.
Dù không cố ý, nhưng trong lúc đưa máy Năm Tường vẫn đọc được mấy số đuôi và biệt danh của người gọi đến.
"Trà Hoa Nữ" là ai?
oOo
Y theo lời hẹn với Trì Thương, đúng chín giờ sáng, Stephen Đoàn có mặt dưới chân núi Cô Tô.
Bài thuốc bổ thận hôm bữa đã giúp Cha Thành và Cha Hoàn có được giấc ngủ ngon và không còn bị đi tiểu lắt nhắt về đêm nữa, nên anh muốn lên đây lấy thêm vài thang.
Sẵn, nhờ người cư Bửu Sơn Kỳ Hương ấy sắc cho Cha Dương một đơn thuốc giảm đau lưng luôn.
- Sadhu...
Vị cư sĩ đó đeo trên lưng một cái gùi đựng đầy cây cỏ; không biết trong đó có giống chi mà thơm nức mũi.
- Thơm lắm phải không Thầy? Đây là cỏ Xạ Hương, trị chứng rong kinh cho phụ nữ.
Nhưng ai có bầu rớ vô là sẩy thai liền.
- Vừa cứu người vừa hại người...
- Phải, nên không yêu nghề thì đừng có học, bốc lộn một vị là giết một người.
Rồi vị thầy thuốc Đông Y vỗ trán:
- Bị bịnh thận đại kỵ cây Mã Đề.
Mía Lau cũng hạn chế dùng.
Stephen Đoàn nhờ cư sĩ Bửu Sơn hốt giùm một đơn thuốc trị chứng đau lưng và yếu đốt sống cổ cho Cha Dương.
Nghe xong, cư sĩ vuốt râu mà cười biểu:
- Trời ơi, yếu đốt sống cổ thì vô nhà thương kêu mấy cha Tây Y "nẹp" giùm.
Tui chỉ biết trị đau, mỏi vai - ót và buốt hai lỗ tai thôi.
- Dạ, cái con cần nằm ở vế đó ông.
- Ừ, vế đó thì tui lo được, chớ mà biểu trị yếu đốt sống cổ là tui bó tay chịu phép.
Stephen Đoàn gục gặc đầu ngượng nghịu.
- Lát dìa ghé y quán của tui lấy thuốc nghen?
- Dạ, ông đi mạnh giỏi hen?
Không biết tìm Trì Thương nơi đâu, Stephen Đoàn đành ngồi đợi dưới gốc cây gừa trăm năm.
Ở cái chỗ chi mà vừa cao vừa khó kiếm, lại còn đầy dẫy côn trùng và bò sát có nọc độc, sơ sẩy một chút là giẫm phải như chơi.
Sau một chặng đường khất thực rất dài, rốt cuộc đoàn Tăng sĩ cũng trở lên núi.
Stephen Đoàn để ý thấy có một cái đuôi đắp áo "cà-sa" trắng như bông bưởi, có lẽ là đồ đệ mới chăng?
Trì Thương tách khỏi Tăng đoàn mà lại gần Stephen Đoàn.
Y bát của chú đựng rất nhiều trái điều, ổi và mận, kèm theo một tép muối ớt.
- Nè, ăn giải khát.
- Ồ, cảm ơn anh.
- Nói rồi, Stephen Đoàn liền lấy hai trái điều và tép muối ớt.
Châu Lợi đang sớt chút cơm cho bầy chim rừng ăn.
Khuôn mặt ông vẫn giữ nguyên lứa tuổi tứ tuần, nếu không quen thân ắt sẽ khó lòng tin nổi ông đã ngoài bảy mươi.
- Thầy Lợi đã ngoài bảy mươi mà sao coi trẻ quá chừng.
Trì Thương cười mà đáp:
- Vì huynh ấy không đi săm soi từng câu, từng chữ người ta nói.
Hay suốt ngày cứ tưởng tượng người ta đang nói xấu về mình.
Và tuyệt đối không tốn thời gian "Lựa đậu".
- Là sao?
- Là ngồi lựa coi ai theo phe mình, ai hạp ý mình, ai chống đối mình, ai theo phe mình ghét hay ai có dấu hiệu thể hiện là người của phe kia cài sang nằm vùng bên phe mình.
Nói tới đây, Trì Thương đưa mắt nhìn Hoàng Kỳ và Thủy Diệu:
- Anh thấy huynh ấy hay rầy rà Hoàng Kỳ và Thủy Diệu, nhưng nói đó rồi xả bỏ ở đó, chứ không nhai đi nhắc lại vào ngày khác.
Bị nhắc tên, Hoàng Kỳ nhếch miệng cười méo xẹo.
- Tôi thấy mặt của anh Kỳ rất kỳ.
- Ừ, hồi mới lên núi tu, thiếu điều ổng với huynh trưởng muốn đánh lộn.
Giờ bớt rồi.
Trì Thương mời Stephen Đoàn theo mình tới hang thỏ để thoải mái chuyện trò hơn.
Đang vào mùa du lịch nên chốn núi rừng không còn mấy nơi hoang vu, thanh tịnh nữa.
Để đến đó phải băng qua một hẻm núi cao vợi và mát lạnh; đây là con đường tắt thứ ba, hai con đường tắt kia dễ đi hơn nhiều nhưng rất dễ làm lộ tẩy cái hang thỏ mà Tăng đoàn đã cất công che giấu.
- Sắp tới mùa An Cư Kiết Hạ rồi, chúng tôi sẽ ăn rau - củ cầm cự qua ngày.
- Có điều chi giống với mùa Chay bên tôi không?
- Không.
Vì mùa mưa là thời điểm sanh sôi, nảy nở của rất nhiều loài vật nhỏ xíu nên Đấng Thế Tôn khuyên chúng tôi rằng không nên đi lại nhiều, cũng như ra ngoài khất thực trong quãng thời gian này.
- Để giữ mạng cho loài thụ tạo cấp thấp, phải đọa đày mình tới mức này sao?
- Đó không phải là đọa đày, đó là kham nhẫn, chỉ có kham nhẫn mới ương được Bồ Đề.
Những cây thuốc họ Dây Leo đã bị cư sĩ Bửu Sơn hái sạch; vết tích để lại là những mảng nám do sự chuyển động theo thời gian của đám thực vật ấy.
- Nhờ Hoàng Lan sợ con này mà tôi mới được yên thân...
Một con tắc kè bông nằm hòa với màu hẻm núi.
Nếu như đôi mắt của nó không chuyển động và nó không kêu lên những tiếng buồn thảm, thể nào người ta cũng tưởng lầm nó là một mảng đá nhỏ.
- Còn Kiều Xuân không sợ chi hết, chuột và đuông dừa mà cổ còn nhai rau ráu.
Con đường mỗi lúc một hẹp.
Lớp đất bên dưới nham nhám, sần sần như vỏ dừa khô; trong đó ẩn đầy trùn đỏ bò lúc nhúc ngang dọc và những con bọ hung đen-bóng đêm cũng như ngày khệ nệ lăn phẩn dơ.
Vén bức rèm bông bìm bìm lên, kế đó Trì Thương mời anh bạn Linh mục bước vô.
- Oa!
Gần trăm con thỏ nhỏ có, lớn có đang nhóm họp trong cái hang rất rộng và thoáng mát.
Những vồng khoai mới giăm hôm bữa nay đã nhú lên khá cao; nếu như Stephen Đoàn nhớ không lầm thì có khoai lang, khoai môn, khoai từ, khoai tây, khoai mì,...!ngoài ra còn có củ sắn, củ năng, củ ấu,...!và một số loại rau cải vị ngọt khác.
- Sao anh không bước vô?
Stephen Đoàn nhìn xuống lạch nước trong vắt dưới chân mà ngần ngừ lắc đầu.
- Đừng có lo.
Chúng chỉ uống nước ở cái khe đằng kia.
Còn cái lạch này chúng không để mắt tới đâu.
Nghe vậy, Stephen Đoàn mới đạp giày xuống cái lạch nước cạn trợt ấy.
Trì Thương mời Stephen Đoàn lên võng nằm, về phần mình thì chú lại ngồi trên bệ đá thân quen như mọi ngày.
Trái ngược với suy nghĩ của chàng Linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, bầy thỏ rất mực hoan nghênh anh, con nào con nấy đều dạn dĩ xích lại gần anh, anh bèn ẵm một con lên nựng nịu.
Trì Thương cũng bồng một con trên tay.
Nằm trên võng được đâu mươi - mười lăm phút, Stephen Đoàn thả con thỏ xuống đất rồi đong đưa võng mà hỏi:
- Anh nghĩ sao về "Tự vẫn" hả Thảo?
- Anh tự vẫn để cảnh tỉnh kẻ ác chỉ tổ làm cho kẻ ác đó mừng vì bớt đi một người đối nghịch.
Thay vào đó, anh phải sống để cùng mọi người chống lại kẻ ác đó.
- Còn về phần "Tự thiêu"?
Trì Thương mỉm miệng cười.
Cái cười tưởng chừng như nhẹ tênh nhưng ẩn sâu trong đó chất chứa bao nhiêu muộn phiền.
Chú xin phép được kể dông dài trước khi đi vào mệnh đề chính; chàng Linh mục gật đầu chấp thuận:
- Vì phiền muộn một vài chuyện trong Tăng đoàn mà tôn giả Ananda đã đi du sơn ngoạn thủy một chuyến để khuây lãng nỗi buồn.
Tới một nhánh sông nọ, từ đằng xa Ông trông thấy hai đội quân đang đánh nhau long trời dậy đất, máu xương nhuộm đẫm mặt sông hiền hòa.
Nhờ Thiên Nhãn của một bậc A-La-Hán mà Ông hiểu được nguyên nhân tại sao lại có cuộc chiến tang tóc này; ở đây xin dừng lại một chút, để cho anh dễ nhớ bối cảnh của câu chuyện, tôi xin được tự ý gọi nước A và nước B, quốc vương A và quốc vương B, thay cho tên gọi và địa danh ghi trong huyền sử Phật Giáo...
Nhận được sự đồng ý của Stephen Đoàn, Trì Thương mới kể tiếp:
- Thì ra hai nước này không ưa nhau đã lâu, đụng một chút là vượt sông giao chiến, nên người dân của hai nước hết sức khổ sở vì nạn binh đao khói lửa và sung quân.
Vậy là đêm hôm đó, Ông báo mộng cho quốc vương A và quốc vương B hay rằng, "Vào sáng ngày mai, tôi sẽ ra bờ sông phân ranh giữa vương quốc của hai vị mà tự thiêu.
Hy vọng rằng cái chết của tôi sẽ đem lại yên vui cho lê dân bá tánh của hai vị, cũng như đem lại nền bang giao hữu hảo giữa hai nước." Hai vị quốc vương bán tín bán nghi nhưng vẫn kéo quân ra đến bờ sông nọ để coi thực - hư thế nào.
Và quả đúng như những gì họ nghe và nhìn thấy trong giấc mộng đêm qua, người Tăng sĩ 120 tuổi kia đã đứng lơ lửng giữa con sông mà chắp tay đợi họ.
Một trong hai vị quốc vương nài nỉ Ông hãy gởi tro cốt cho nước mình, vị kia thấy vậy cũng hoảng hồn hoảng vía lên tiếng tranh giành.
Quân đội của hai nước đã rục rịch động binh để cướp tro cốt của bậc Thánh Tăng mà họ đã từng được nghe thiên hạ xưng tụng.
Y theo lời hứa với chúng sanh, sau khi dùng lửa Tam Muội tự thiêu mình, tro cốt của Ông tự phân ra làm hai và mỗi phần rớt xuống một bên bờ sông.
Kể từ đó về sau, hai nước đã vui sống trong hòa bình với nhau và người dân bên nước này coi người dân bên nước kia như máu mủ ruột rà.
Stephen Đoàn nhướng cao đôi mày, nhưng vẫn lặng im lắng nghe người Tăng sĩ ấy nói.
- Tôn giả Ananda không có "thòng" vô câu, "Tôi làm vậy là để xiển dương hay bảo vệ Phật Giáo." Ông làm là vì cứu chúng sanh.
Chỉ vậy thôi.
Ngay cả trong Tăng đoàn, sau khi Ông chết mới biết Ông đã tự thiêu, Ông âm thầm hành động vì không muốn quá nhiều người vì mình mà mắc tội "thấy chết mà không cứu", nói vắn tắt là "ngộ sát".
Sự ra đi của Ông có thể dẫn đến sự diệt vong của Phật Giáo thời đó.
- Tại sao tôn giả này ra đi lại có thể dẫn đến sự diệt vong của Phật Giáo thời đó?
- Vì Ông là rường cột cuối cùng của Phật Giáo.
Ông chẳng sợ cái chết của mình sẽ gây thiệt hại và sụt giảm uy tín của Phật Giáo.
Và Ông đã đúng.
Dù không còn một bậc Đại Trưởng lão nào ở lại quán xuyến Tăng đoàn nữa, nhưng đức tin này đâu có bị biến mất.
Cái gì là Chân - Thiện - Mỹ thì dẫu có biến mất đi chăng nữa, cũng có lúc nó sẽ quay lại thôi.
Mùi cồn sát khuẩn đã khiến bầy thỏ ngọc ù té chạy.
Hai người nhà tu nhìn nhau mà lắc đầu cười xòa.
Đợi cho đôi tay bay hết hơi cồn, Stephen Đoàn mới bưng cái y bát lên và ăn trái cây chấm muối ớt.
- Rất nhiều người theo Đạo Phật và Tăng sĩ thời nay quá chú trọng việc phổ biến Phật Pháp nên đã gây ra nhiều chuyện dở khóc dở cười.
Nhiều thầy tu ngày nay ham nói hơn ham tu nên mới cho ra đời những "bài nói" Trời ơi Đất hỡi.
Vừa nhai mận, Stephen Đoàn vừa hỏi:
- Tại sao không phải là "thuyết trình" mà phải là "bài nói"?
- Thuyết trình chỉ sử dụng khi nào có giá trị, còn "Bài nói" là để dành cho những buổi giảng dài dòng và không có lợi lạc gì cho việc tu học.
- Anh có thể nói rõ hơn được không?
- Các vị tôn giả thời ấy rất ít khi tổ chức thuyết pháp.
Thường thì khi đi khất thực, nếu gặp chúng sanh hữu Duyên hoặc đang cần cứu cánh về mặt Nghiệp - Quả, họ mới nán lại và khuyên giảng cho nghe.
Nhiều thầy tu có tư tưởng hoằng dương Phật Pháp và e sợ Phật Giáo tuyệt diệt nên đã làm những hành động không đẹp và rất đáng chê trách lẫn lên án.
Không những vậy, còn làm trái di nguyện của Đấng Thế Tôn và đi bôi bác đức tin của anh.
- Nhưng không có...!truyền Đạo thường xuyên thì tín đồ dễ lợt lạt lắm...
Trì Thương làm ấn thủ mà Đấng Thế Tôn thường hay làm mỗi khi kết thúc một bài giảng.
Đương nhiên, một người Linh mục Cơ Đốc Giáo như Stephen Đoàn sao mà hiểu được ký tự này mang hàm nghĩa gì.
Bắt ấn xong, chú chồng hai bàn tay lên nhau theo tư thế mở rồi đặt giữa hai đùi; sau đó nói:
- Những gì do Đức Thích Ca Mâu Ni lưu lại ở thế gian này phải tuyệt diệt hoàn toàn thì khi ấy vị Phật-mới mới đản sanh ra.
Vì theo thuyết nhà Phật do chính Phật Tổ truyền lại, Vũ Trụ không thể nào dung chứa nổi hai vị Phật cùng lúc, cũng như di vật của hai vị Phật cùng lúc.
Bây giờ đã rơi vào cửa số Ba: Hoại; cửa thứ Tư hãy còn lâu lắm mới mở ra, vì vậy chẳng có gì phải lo lắng cả.
- Ủa mà Đức Phật họ Thích hả anh?
- Đức Phật không phải họ Thích, họ của Ngài là Cồ Đàm.
Thích-Ca là tên gọi của dòng tộc Ngài.
Tôi cũng không biết ai là người đã bày ra phong trào đặt Pháp Danh có chữ "Thích" đứng trước nữa.
Nên một số nhà Nho thời xưa mới lầm tưởng Đức Phật họ Thích, rồi cứ thế mặc định viết sách y như vậy.
- Nhưng, danh xưng "Thích Ca Mâu Ni" nghĩa là gì?
- Vì dòng tộc của Ngài đa phần xuất thân từ giai cấp "Khattiya - Chiến sĩ", nên các Thầy tôi diễn giải rằng: Người đại trí đại huệ của dòng tộc thuộc giai cấp "Chiến sĩ".
Còn về ý kiến khác, hầu hết cho là "Năng-Nhơn Tịch-Mặc" và "Bậc giác ngộ xuất chúng".
- À...
- Rất nhiều người thời nay nói mình theo Phật nhưng lại rất hiếm khi đọc Tạng Kinh; đáng buồn thay, họ lại chỉ thích nghe Tạng Luận.
- Cũng như bên tôi thôi, nhiều người không rõ Kinh Tân Ước và Kinh Cựu Ước, phần này xọ phần kia, phần kia lộn sang phần nọ.
- Theo thiển ý của tôi, người theo Phật Giáo mà ác thì còn ác hơn người theo Đạo khác.
Stephen Đoàn ra dấu mời người Tăng sĩ mày tằm mắt phụng nói tiếp.
- Tại vì chúng tôi có một quan niệm: "Vì chúng sanh xuống Địa Ngục cũng cam lòng", nên chúng tôi sẵn lòng phạm giới để bảo vệ cái Thiện.
- Nói rõ hơn được không?
- Trong một tiền kiếp, Đức Phật là con trai một thương gia, vì chiếc tàu buôn bị hải tặc đột kích mà Ngài đã cầm đao lên giết người.
Ngài giết kẻ ác để bảo vệ người thiện.
Đương nhiên, theo thuyết Nhân - Quả nhà Phật, Ngài đã bị lãnh Nghiệp xấu từ hành động này, nhưng không nặng mấy vì kẻ mà Ngài giết là kẻ ác...!Nói tới đây chắc anh không hiểu đâu phải không?
- Không.
- Tức là nhóm hải tặc đó gieo Nghiệp Xấu trước nên phải nhận lãnh Quả Báo là cái chết thảm khốc và không được mồ yên mả đẹp.
Đức Phật trong kiếp đó là người thi hành việc giáng cái Quả đó xuống đầu họ.
Rồi, vì sát sanh, tới lượt Ngài phải chịu cái Nghiệp Xấu từ hành động Bất Thiện trên, nhưng đã được trừ bớt do đối tượng mà Ngài xuống tay là nhóm người bất hảo...!Cứ thế, cứ thế, người này hại người kia, người kia hại người nọ, người nọ xọ người khác,...!một mắt xích Nghiệp - Quả và Duyên Nợ dài ra hoài hoài, triền miên từ kiếp này sang kiếp khác khó lòng mà dứt ra và trả hết được.
Thành thử ra, còn luân hồi là còn tạo Nghiệp và trầm luân trong bể khổ.
Do đó chúng tôi không luyến tiếc khi bỏ lại mọi thứ mà bước chân vô con đường tu tập hầu tìm một lối thoát cho mình: Đó là Niết Bàn.
Quy luật Nhân - Quả Báo - Ứng nhà Phật không thể nào giải thích bằng mấy buổi thuyết pháp hay đọc hàng ngàn cuốn sách.
Do đó huynh trưởng nhiều khi biết rõ cái Nghiệp nào dẫn đến cái Quả của người này - người kia, nhưng huynh ấy không dám nói ra vì sợ họ sa đà vào việc cúng kiếng giải Nghiệp và bùa ngải hại đời.
- Có lẽ tôi ngồi nghe anh nói thêm vài trăm năm nữa tôi cũng không thể hiểu kinh sách bên anh.
- Tôi cũng vậy thôi.
Khi một đức tin hay chủ nghĩa không nằm trong trái tim và khối óc anh, dầu có "nhồi sọ" cỡ nào anh cũng thoát ra được.
Stephen Đoàn cúi mặt nói bằng giọng buồn buồn:
- Bởi vậy tôi sợ nạn "Đạo gốc" lắm.
Là tự nguyện theo vì mến Chúa hay gia đình bảo sao thì phải nghe vậy.
Nhiều lúc ngó xuống thấy mấy đứa nhỏ ngủ gục, anh Cường và chú Quới còn la chứ tôi để tụi nó "đi" luôn.
- Còn nhớ cái năm tôi còn nhỏ, mỗi lần đọc Kinh buồn ngủ không chịu nổi là tôi lại ôm bắp vế của Thầy hoặc huynh trưởng ngủ ngon ơ.
Tới lượt Phú Lâm cũng vậy, lần nào tới giờ hành trì là nó nằm dài ra đất ngủ khò; ngoài ra nó còn không thích ở trên tịnh thất mà khoái vô xóm núi coi TV nữa, nên đêm nào Châu Lợi cũng cõng nó xuống đó chơi rồi vào rừng hành thiền một mình.
Xui rủi sao, con gái chủ nhà thương huynh trưởng nên mặc dù đã có chồng nhưng vẫn ra cửa đứng đợi hằng đêm, chồng của chị đó ghen lên xém chút nữa là đã xảy ra án mạng.
Sau sự vụ này, huynh trưởng bị mang án oan thầy chùa mà đi gạ vợ người ta; xấp nhỏ trong xóm mỗi lần thấy huynh trưởng lại ca ầm ĩ, "Thầy chùa lửa sửa cầu tiêu..." May nhờ có các cư sĩ Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,...!hay đi hái thuốc ban đêm đứng ra làm chứng nên mối oan khiên của huynh trưởng mới được hóa giải.
- Lúc đó anh ở đâu?
- Tôi ở tịnh thất làm bài tập về nhà.
- Thầy Lợi mặt mày đẹp đẽ, oai nghi như vầy nên bị theo cũng không có gì là lạ.
Tôi có nét nào coi được đâu mà tự nhiên lại...
- "Lý Duyên Khởi." Vả chăng, anh chịu nhún nhường người khác nên dễ gây cảm tình với một cô gái đang bị tổn thương như Kiều Xuân.
Với những người đang mắc các vấn đề về tâm lý, họ cần một người sẵn lòng lắng nghe hơn là một người lên giọng dạy đời.
Stephen Đoàn lưu lại ý này để biết mà giúp Kiều Xuân trị bệnh:
- Rồi gia đình đó sao?
- Tan đàn xẻ nghé rồi.
Chỉ dọn về quê ngoại sống.
Cũng may vợ chồng chỉ chưa có con...
Biết rằng Stephen Đoàn đang khát nước nên Trì Thương đi lấy chai trà gạo Đại Hàn 325ml cất ở một lỗ hổng trên vách đá.
Vì nhiệt độ trong Hang Thỏ rất mát mẻ nên chai trà gạo được ướp lạnh một cách tự nhiên.
- Cảm ơn anh nghen, khát nước gần chết rồi...
Uống gần hơn nửa chai, Stephen Đoàn hỏi:
- Sao anh không uống?
- Tôi uống nước lạch là được rồi.
Rồi chợt chàng Tăng sĩ tên Thảo bình phẩm:
- Có đôi lúc chúng ta phải phản lại đức tin để cứu lấy chúng sanh.
- Tại sao vậy?
- Vì còn chúng sanh tốt, đức tin mới gầy dựng lại.
Bao che cho chúng sanh xấu, đức tin sẽ vĩnh viễn trở thành công cụ mị dân ru ngủ.
- "Chúa đã khước từ".
- Anh cũng thấy đó.
Hễ thầy tu nào bên Phật làm sai đều bị lên án kịch liệt, chẳng có được mống nào bao che hay biện hộ giùm.
Rồi Trì Thương nhìn Stephen Đoàn mà nói:
- Đừng lấy chiêu bài "Chia rẽ Giáo Hội" để lấp liếm cái sai của thầy tu và cái tàn tệ bên Đạo mình.
Thêm nữa, hễ ai đưa hình chứng minh lời họ nói là Sự Thật thì quýnh quáng phán "Ảnh ghép".
- Bên Đạo Phật rất ít khi nào nói câu trên?
- Cũng có người nói ấy chứ.
Nhưng lập tức bị người khác vô cự lại liền.
- Anh có đặt nặng chuyện...!"giáo chủ" không?
- Chúng tôi theo Phật chứ không quá đặt nặng chuyện theo người Thầy trong đời này của mình.
- Vậy anh nghĩ sao về Đức Đạt Lai Lạt Ma?
- Lời nào ngài nói mà chúng tôi cho là đúng và gây lợi lạc cho chúng sanh, chúng tôi sẽ nghe theo.
Còn lời nào chưa hiểu hay chưa quán sát được chúng tôi sẽ tạm thời gác qua một bên.
- Có ai không tu tập được không?
- Hoàng Kỳ không ngồi thiền lâu được.
Và chúng tôi cũng chẳng chê trách hay cười nhạo.
Thường thì sau giờ Thọ Thực, đệ ấy sẽ đi kinh hành một mình trong rừng sâu núi thẳm thay cho hành thiền.
- Tôi chưa gặp Đoạn Trần bao giờ.
- Thầy ấy thường nhốt mình trong khu rừng kia.
Hiếm khi nào muốn ra ngoài gặp ai.
- Vậy ông ấy ăn cái gì để sống?
- Trái cây.
- Cũng như Thanh Liên?
- Phải.
- Nói khí không phải chứ tôi nhìn Thầy Liên hệt khuôn con gái.
- Vì Trưởng lão bị sanh non mà.
Cơ thể chưa hoàn thiện và cứng cáp mấy mà đã bị lôi ra khỏi bụng mẹ.
Giới tính mới vừa thành hình là nam thôi.
Stephen Đoàn gọi điện báo cho Châu Lợi hay rằng trưa nay Trì Thương đi ăn trưa với mình.
Hai người sẽ tới Châu Đốc ăn uống và nhân đó, chàng Linh mục Vĩnh Long sẽ nhờ chàng Tăng sĩ Hậu Giang đưa mình đi du ngoạn một chuyến.
Người lái taxi vẫn là cậu tài-xế trẻ măng hôm bữa.
Ngoài cái vô-lăng này ra, cậu không còn biết bám vô đâu để kiếm tiền sống hết.
- Anh muốn nghe bài chi cứ nghe.
Tôi không cảm thấy phiền đâu.
Vậy là Stephen Đoàn bèn ngỏ ý muốn nghe bài "Hồng Đào" của nhạc sĩ Đài Phương Trang qua phần trình bày của Hoàng Oanh; một trong những bản nhạc Vàng rất hiếm người biết đến, thành ra cậu tài-xế cười xẽn lẽn nói mình không có băng nào chứa bài này.
- Vậy đổi sang "Tan vỡ" của nhạc sĩ Lam Phương đi.
Ca sĩ nào ca cũng được.
- Ngọc Lan hen?
- Ừm.
- Nếu như tôi nhớ không lầm, người hát tình khúc này đầu tiên là cô Hoàng Oanh.
- Mà nè...
- Dạ?
- Anh có từng đi quân dịch chưa?
- Rồi.
Ba năm.
Làm ở khu Tiếp Liệu.
Nhận thấy ánh mắt mong chờ của Stephen Đoàn và cậu tài-xế, Trì Thương bình thản trình bày một đoạn quá khứ của mình:
- Lúc đó tôi vẫn là một Sa-di, nói cho anh dễ hiểu thì nó gần giống với một Chủng sinh bên anh.
Vào thời gian này, tôi vẫn ăn hai bữa một ngày, và nếu có tiền thì sẽ ăn bữa sáng; do vậy mà cuộc sống quân ngũ của tôi không mấy khó khăn và xa cách mọi người.
Sau khi xuất ngũ, tôi ở lại Sài Gòn một năm, Thầy tôi biểu nếu như tôi động lòng với Hoàng Lan thì sẽ cho phép tôi hoàn tục, còn nếu không thì quay về núi làm Lễ Quy Y.
Nhưng rốt cuộc tôi không động lòng khi gặp lại Hoàng Lan.
Năm ấy nhỏ mới mười bảy tuổi, học trường Quốc tế, đẹp một cách kiêu sa như cái tên của nhỏ vậy.
Cứ hễ mỗi lần tôi tìm gặp nhỏ là nhỏ lại có chuyện phải rời đi, hệt như một trò cút bắt, tôi biết mình với nhỏ hữu Duyên vô Phận nên đã trở về núi sớm hơn dự định vài tháng.
- Anh không về thăm gia đình hay hỏi ý kiến ba - má sao?
- Tôi có về thăm gia đình và thỉnh ý kiến của má.
Má khóc rất nhiều, và nhất mực bắt tôi hoàn tục.
Tôi mới xin với má cho tôi đi tu thử một thời gian, nếu kham không đặng thì sẽ hoàn tục...
Stephen Đoàn nhận thấy ánh mắt của người Tăng sĩ tên Thảo bỗng hoe đỏ.
- Nhắc lại chuyện này, tôi có cảm tưởng mình đã gạt má...!
Cậu tài-xế lên tiếng hỏi:
- Thầy thấy mình với cô Lan gì đó ra sao?
- Tôi với Lan có Duyên Nợ nhưng không có Duyên Phận, có cưỡng cầu cách mấy cũng hóa hư không.
Đã đến chợ Châu Đốc, ba người bèn xuống xe rồi ghé vô một quán cơm tấm Long Xuyên ăn uống.
Chiếc xe của cậu tài-xế gởi ở bãi giữ xe đầu chợ cho chắc ăn.
Đồ ăn thì họ kêu chung món, còn về phần thức uống thì gọi riêng theo sở thích.
Stephen Đoàn cảm khái:
- Tự nhiên tôi nhớ đến bài "Châu Đốc, miền quê yêu" của đôi tác giả Hoàng Trọng - Duy Viêm, hồi mới tập thổi kèn tôi có tìm hợp âm của nó nhưng không kiếm được nên thành ra phải bỏ qua luôn.
Cậu tài-xế cười rộ lên:
- Tôi là người bản xứ mà còn không biết bài này nữa...!Mà, hai ông này Bắc hay Nam?
- Nhạc sĩ Hoàng Trọng là người Bắc; còn Duy Viêm, chắc là nhạc sĩ miền Nam.
Thường thì ông Viêm viết lời và ông Trọng soạn nhạc.
- Hai ổng có bài nào nổi tiếng không Cha?
- Có.
"Bão tình", cô Khánh Ly ca bài này hay lắm.
Cậu tài-xế bỗng ngỏ lời mời:
- Lát nữa Cha biểu diễn bài "Bão tình" nghen Cha?
- Ừm...!
Tự nhiên Trì Thương nhớ đến cái hồi mình còn là thằng nhỏ Trần Mộc Thảo, chú hay thổi kèn lá góp vui cho đám bạn nghèo cùng xóm; có khi thi đua trâu - đua bò với mấy đứa xóm trên - xóm dưới, báo hại ruộng của bà con bị cày nát hết, bữa đó chú về ăn roi mây thay cơm canh.
Chú sực nhớ ra, cái năm oan nghiệt ấy, để dỗ dành "Cô bé ngày xưa" đang trong cơn bấn loạn vì đi lạc, chú đã thổi cho cô bé nghe bài "Bé, Cây đàn, Ngôi nhà xanh, Đồi cỏ" của nhạc sĩ Phạm Duy mà chú biết đến thông qua giọng ca của Duy Quang: "Chiều chuộng bé thơ, gặp gỡ tình cờ.
Anh đàn cho bé tựa cửa nghe..." Và rồi, nhỏ đã vòi chú hát thêm một bài nữa, vậy là chú ê a ca bài "Đưa bé đến trường" của nhạc sĩ Phạm Duy.
Nhỏ hứa khi nào gặp lại sẽ tặng chú băng nhạc "Thiếu Nhi 1: Ban Tuổi Xanh"...
- Anh Thảo.
Trì Thương ngước mắt nhìn Stephen Đoàn.
- Hình như anh đang có tâm sự?
- Tôi chưa từng yêu ai nên không tài nào hiểu nổi tại sao một người lại có thể si mê và hôn trầm bởi một người...
- Yêu là cứu cánh và cũng là hố sâu tội lỗi.
Tôi là cứu cánh của Kiều Xuân, nhưng Kiều Xuân lại là hố sâu tội lỗi của tôi.
- Anh đâu có yêu cổ đâu mà tội lỗi? Anh chẳng có rung cảm xác thịt hay luyến lưu chi sất, hết thảy mọi huyễn tưởng do anh thêu dệt đều bắt nguồn từ ký ức về người mẹ quá cố mà ra.
- Còn anh?
- Tôi không thể hiểu nổi tại sao cùng một nhân ảnh nhưng Hoàng Lan không thể thương được anh Hai tôi.
- Hai người có hai linh hồn hoàn toàn khác nhau.
Chắc có lẽ Hoàng Lan cần một người trầm lặng và thông thái để dựa dẫm phần hồn, chứ không cần một người cười nói rổn rảng và suy nghĩ không sâu xa như anh Hai anh.
Cái vui ở phần xác chỉ là cảm xúc nhất thời.
Nhưng cái vui ở phần hồn là con đường dẫn ta về với Chúa.
Đó là lý do tại sao tu sĩ bên tôi coi trọng phần hồn và khổ hạnh phần xác, nhưng sự sùng bái quá thể của một vài con Chiên có thể là cây đinh đóng chúng tôi trên Thập Giá ngược...
- Anh sợ sự Kiêu Ngạo sẽ phát sanh nếu như anh được hưởng quá nhiều ơn sủng của bầy Chiên?
- Phải.
Nó nhọn như những cái gai mà Chúa Jesus đã từng đội trên đầu lúc chịu khổ nạn cho thế gian.
Chỉ khác ở chỗ, cái chết của Ngài là biểu tượng hết sức cao đẹp; còn "cái chết" của những kẻ mắc phải sự Kiêu Ngạo là nỗi ô nhục cho Giáo Hội và bầy Chiên.
- Thành ra anh cứ cả nể nhận lời làm giùm người ta hoài? "Phải hạ mình xuống mới nâng được người khác lên" phải không?
- Câu gốc không phải vậy.
Nhưng tôi hiểu ý mà anh muốn trình bày thông qua câu cách ngôn ở trên.
- Anh đã hạ mình xuống.
Và đã bị người ta đạp lên luôn.
Hệt như Cha Joseph - Blanc Cao Nhật Thành.
Stephen Đoàn mím môi thật chặt.
Do không hiểu đầu cua tai nheo chi sất nên cậu tài-xế vội vàng lên tiếng đánh trống lảng.
Cậu giới thiệu rằng gần đây có chỗ bán bánh tằm bì ngon lắm.
Stephen Đoàn gục gặc đầu, ra vẻ đã nghe, rồi nói:
- Tôi đã cài bài hát "Tâm tình hiến dâng" của Linh mục Oanh Sông Lam qua giọng ca của Ngọc Lan.
- Anh đã ở lại với Chúa Jesus như cái cách mà Thánh Stephen đã làm.
- "Tha thứ và Tín thác".
Từ bàn bên kia, một người thanh niên đang nói chuyện với thằng bạn của mình:
- ...!Thì cũng như người đồng tính luyến ái kết hôn với người khác giới thôi.
Có một niềm tin hoang đường rằng sau khi cưới họ sẽ hết "bịnh".
Hết đâu không thấy chỉ thấy gia đình họ rơi vào cảnh sống không bằng chết: Có người nổi sùng lên đánh đập vợ con, có người lại năm lần bảy lượt tự vẫn, cũng có người suốt ngày mượn rượu giải sầu, lại có trường hợp phát điên luôn.
Sẵn đây, Trì Thương kể cho Stephen Đoàn nghe:
- Trong Phật Giáo, không có đặt nặng chuyện phái tính hay không được ly dị.
Vì đã ăn xong phần cơm của mình nên Trì Thương thuật chuyện cho hai người kia hay:
- Có một câu chuyện thuộc dạng huyền tích trong Phật Giáo như vầy:
Có một người đàn ông phong lưu bay bướm vô tình bắt gặp tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên đi khất thực ngang qua nhà bỗng dưng nảy sinh ý muốn có được một cô vợ có nước da đẹp như Ông.
Ý niệm đó vừa phát khởi lên, ông này liền biến thành phái nữ đúng theo sở nguyện.
Vừa bối rối vừa mắc cỡ, ông lẳng lặng bỏ vợ bỏ con trốn nhà đi biệt.
Trên đường bôn tẩu, ông được mai mối cho một người trai xuất thân giàu có và sang trọng.
Nghĩ mình đã mang thân thể này thì thôi cũng đành thuận theo số phận, ông nhậm lời luôn.
Chừng chục năm sau, ông mới gặp lại tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên thông qua người bạn mà ông quen biết khi còn là đàn ông, ông hối hận quỳ xuống đảnh lễ rồi dâng vật thực cúng dường.
Vừa mới làm xong, ông trở về thân thể phái nam như cũ.
Không hiểu nghĩ sao, ông xin được xuất gia đi tu.
Sau một đỗi chứng kiến mọi chuyện trong sự bợ ngợ, ông chồng thương gia chạy đến năn nỉ "bà vợ đàn ông" rằng, "Mình đừng có đi tu mà.
Mình là nam hay nữ tôi cũng thương mình hết.
Mình đừng có bỏ tôi và xấp nhỏ mà." Ông cảm động quá nên đã òa lên khóc, nhưng sau đó vẫn nhất mực đòi đi theo tôn giả Đại Ca-Chiên-Diên...!
Câu chuyện trên được ghi lại trong Kinh Pháp Cú số 43.
Những gì tôi kể trên đây cho anh nghe hoàn toàn dựa trên trí nhớ của tôi, nếu muốn đọc rõ ràng và đầy đủ chi tiết thì xin anh hãy dành chút thời gian tìm đọc bài này.
Stephen Đoàn che mặt mà cười ngặt nghẽo.
Và rồi anh cũng góp một chuyện bên Đạo mình cho anh bạn Tăng sĩ nghe, đó là chuyện "Thánh Phêrô chối Chúa".
- Tôi theo Đạo Phật mà tới giờ mới biết câu chuyện này.
Thể theo lời ngỏ của Trì Thương, hai người dừng chân ở lưng chừng núi Sam.
Trước lúc ăn tráng miệng với món bánh tằm bì, Stephen Đoàn bị cậu tài-xế đòi thổi harmonica cho nghe bài "Bão tình" của Hoàng Trọng - Duy Viêm.
Anh bẽn lẽn nhận lời.
Tiếng đàn huyền diệu của Stephen Đoàn đã khiến cho cậu tài-xế hết sức bất ngờ.
Cậu lại ngỏ ý được nghe thêm vài bản nhạc nữa, chàng Linh mục vui lòng chiều theo.
Chừng thấy đã gần một giờ trưa, cậu tài-xế mới chịu ngừng mà lái xe đi đổ xăng.
Chỉ còn hai người, Stephen Đoàn day qua bắt chuyện với Trì Thương:
- Như vậy, ông chồng bất đắc dĩ của vị Tỳ-Kheo đó thật lòng yêu ông ấy chứ không phải vì...!say đắm sắc đẹp.
- Có lẽ là vậy.
Đợi cho Stephen Đoàn ăn được vài muỗng bánh tằm, Trì Thương nói tiếp:
- Khi anh yêu ai, anh chỉ nhìn thấy được tâm hồn người đó, và không bao giờ bị vẻ bề ngoài làm lung lay tình cảm mà anh dành cho người đó.
Stephen Đoàn mỉm miệng cười.
- Ăn bánh tằm bì ngon không?
- Ngon.
- Anh dễ nuôi hơn tôi nhiều.
Hồi còn sống với gia đình, tôi kén ăn riết mà ba má tôi phát rầu luôn.
- Đáng ra tôi không dễ nuôi đâu, vì mẹ của tôi sắp chết nên tôi không muốn bỏ qua một lần nào được ăn đồ mẹ nấu.
Vị giác của bà đã không còn nữa, có lần nêm canh chua thì mặn như muối, có bữa kho cá ngọt hơn nồi chè cúng Rằm, cũng có khi ướp thịt rất tanh.
- Anh vô trường Dòng từ năm lớp Tám hả? Trước đó thì anh ở bán trú?
- Sao anh biết hay vậy?
Trì Thương chỉ lắc đầu cười.
Do có hẹn với ông Cha Sở bên Đồng Tháp nên Stephen Đoàn từ giã người Tăng sĩ tên Thảo mà khăn gói lên đường.
Đi cùng với anh vẫn là cậu tài-xế núi Ông Tượng.
Nghe vậy, Trì Thương làm ấn thủ cầu phúc cho anh bạn tu sĩ, rồi xin phép lui về rừng sâu thiền định.
Trong lúc chờ cậu tài-xế quay lại, Stephen Đoàn bật bản nhạc "Giọt lệ buồn" do tam ca Minh Phúc - Billy Shane - Ngọc Lan trình bày; ca - nhạc sĩ Minh Phúc đặt lời Việt từ bài hát "Rien quune larme" của đôi tác giả Pháp Mike Brant - Michel Jourdan.
...
Hỷ Tín nhớ lại mình đã cùng đồng bọn đẩy không biết bao nhiêu người vào đường cùng chỉ để nhận chút đỉnh tiền còm từ chủ thuê.
Có lần cậu đã xóa bỏ một trang Facebook bán hàng của đôi vợ chồng nọ rồi cùng đồng bọn ngụy tạo một trang giả thay thế trang cũ, khiến cho gia đình đó mắc nợ nần trầm trọng do đồng bọn của cậu đứng ra lãnh tiền của khách hàng nhưng không giao đồ như đã hẹn, hậu quả là con cái của hai người phải nghỉ học một năm và tới giờ họ vẫn còn thiếu nợ khắp nơi.
Nhớ lại chuyện hại người năm bữa, cậu và đồng bọn còn hả hê và chửi đôi vợ chồng ấy ngu vì dám động vô chủ thuê.
Mà đôi vợ chồng ấy có nói nặng - nói nhẹ chi đâu, chỉ là phát biểu phong long như vầy, "Sao mấy thằng ở ác sống lâu quá vậy?" Ấy thế mà cậu và đồng bọn suy diễn thành họ đang trù ẻo chủ thuê nên đã ra tay triệt đường sống của gia đình họ.
Có lẽ "Thiên - Địa bất dung gian" nên hai thằng lấy tiền nhiều nhất trong vụ này bị bệnh giang mai nặng, và giờ tới lượt cậu bị chính đồng bọn đập bể đầu.
Trì Thương nhìn Sa-di mà Trưởng lão Như Phong ký thác:
- Thay vì ngồi đó khóc lóc, đi trả nợ cho họ đi.
Hỷ Tín ra dấu mình không có tiền.
- Không có tiền hả? Thì lấy đất cấn nợ.
Hỷ Tín ra dấu trả lời rằng đất đó không phải của mình nên không dám rớ vô.
Ngay trong ngày hôm sau, thím Tám Đề liền liên lạc với một vị luật sư đang cộng tác với một tổ hợp Luật trên Sài Gòn, để nhờ anh ta đứng ra sang tên mảnh đất hương hỏa của nhà mình qua tay đôi vợ chồng ấy.
Lý do mà thím phải cậy nhờ một người ở tuốt tận Sài Gòn là vì người này hổng có lấy tiền, lại chịu mở hầu bao ra trả hết mọi phí tổn về xe cộ, giấy tờ, thủ tục hành chánh,...!
...
Y hẹn, vào khoảng mười một giờ rưỡi, một người đàn ông áng chừng trung niên tướng tá phốp pháp, mặt mày coi hệt như kép hề trong mấy tuồng cải lương xưa, tắt máy - xuống xe rồi đi xăm xăm một hơi vô nhà trên của tịnh thất.
- Có ai ở nhà hôn?
Tạ Khắc Xương mặt ủ mày chau.
Anh đành thất lễ mà chắp tay cúi chào bức tường trước mặt:
- Nam-Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.
- Sadhu.
Một người Tỳ-Kheo có gương mặt đẹp như tượng tạc đứng ở cửa hông dẫn xuống nhà sau mà chắp tay chào Tạ Khắc Xương.
- Bạch Thầy, ai là thân chủ của tôi vậy?
- Dạ, gia đình thân chủ của thí chủ có việc nên đã xuống núi rồi.
Mời thí chủ xuống nhà sau ăn bánh - uống nước trà trong lúc đợi họ.
- Thầy là người ngoại quốc thiệt hả? Hèn gì mặt mày coi ngộ quá!
Thủy Diệu cười hiền:
- Phải, ba mẹ tôi đều gốc ở Địa Trung Hải, sau dời sang Anh Quốc sanh sống.
Nói cụ thể hơn ba tôi là người Hy Lạp, còn mẹ tôi người Ý Đại Lợi.
- Toàn quốc gia có dân số đẹp nhiều hơn xấu biểu sao khuôn mặt Thầy không đẹp dữ thần vậy!
Thủy Diệu chỉ biết cười giả lả cho qua chuyện.
Ra đến sau hè, Tạ Khắc Xương ướm hỏi gia cảnh của thân chủ tương lai để anh ta còn biết đường liệu định và ăn nói sao cho phù hợp.
Thủy Diệu thuật sơ đôi nét.
Nghe xong, Tạ Khắc Xương thở dài thườn thượt, rồi nói thòng rằng nếu sau này đôi vợ chồng ấy có tìm cách tống tiền thì phải tự liệu bề mà sắp xếp, anh chỉ lo được thủ tục hành chánh chớ không thể phòng đặng lòng người.
- Xin lỗi, nhưng mà ở đây Wi-Fi có mạnh không?
- Mạnh.
- Xin phép cho tôi được biết mật khẩu.
- Không có mật khẩu.
- À...
Tạ Khắc Xương liền mở Laptop soạn thảo hồ sơ bồi thường thiệt hại nhằm bãi nại cho con trai của thân chủ.
Ban đầu anh cứ tưởng là bán đất - bán đai hay tài sản thừa kế chi đây nên muốn mượn mình sang tên giùm; ai ngờ đâu miếng đất này là tài sản bồi thường thiệt hại cho bên kia, nhằm để xin đôi vợ chồng ấy không khiếu kiện con trai của thím Tám Đề.
Cũng bởi cái tánh giấu giếm này mà anh phải tốn công ngồi soạn lại hồ sơ từ đầu.
Ngồi đánh máy được đâu nửa tiếng, kế Thủy Diệu bưng mâm trà - bánh lên mời chàng luật sư họ Tạ.
Đây là bánh bò ăn với đường thốt nốt; nếu cảm thấy ngọt miệng thì đã có trái điều ăn giải vị.
- Cậu này mà bị đưa ra tòa chắc...!
- Phải.
Hai người anh còn kham nổi, đằng này gần cả ngàn người.
- Trời ơi! Thiếu thốn gì mà đi gây Nghiệp dữ vậy?
- Thua độ đá banh.
- Nó đầu quân cho Juventus, MU hay Chelsea?
- Nếu vẫn còn chơi nữa, chắc cẩu sẽ được tuyển thẳng vô Juventus.
- Thầy làm tôi nhớ cái hài "Nam-Mô, Nam-Mô vái Manchester thắng Juventus".
Thủy Diệu vừa lắc, lắc đầu vừa bật cười khúc khích.
Rồi nói:
- Hồi xưa tôi cũng thường chơi cá ngựa bên Anh Quốc.
Thường thì thắng nhiều hơn thua.
- Vui không?
- Lúc đó thì rất vui, bây giờ tự nhiên có cảm giác đoạn ký ức ấy thuộc về ai khác chứ không phải là mình.
Đang nói chuyện tới đó, hai người nhìn thấy hai mẹ con thím Tám Đề, Phá Vân và Châu Lợi sửa soạn bước xuống xe.
Người tài-xế taxi trẻ măng chưng hửng ngó Phá Vân, rồi e dè hỏi mình có được trả tiền cước không.
Châu Lợi cười hiền mà đáp:
- Phải trả chớ.
Xe của cậu mà.
Ai lái giùm thì cũng tính như cậu lái thôi.
- Thầy Vân mà ra làm tài-xế chắc con bỏ nghề quá.
Hỷ Tín chắp tay mà cúi đầu thưa người luật sư Cao Đài.
- Cẩu không nói chuyện được à?
- E rằng là do...!có vấn đề, chứ không thể nào tự nhiên mà thành ra như vầy được.
- Anh bạn Mục sư của tôi thì dính một vụ bên Công Giáo, giờ tới tôi bên này...
Thím Tám Đề tặc lưỡi rồi nói:
- Hèn gì Mục sư Tân cử thầy xuống đây thay thế...
Để cho khỏi gặp chuyện lôi thôi về sau, cũng như để giấy tờ được minh chính, thím Tám Đề mời mọi người về Đồng Tháp một chuyến.
Ai nấy đều vui lòng ưng thuận.
Thời may chiếc xe của Tạ Khắc Xương có năm chỗ nên những người cần đi thoải mái ngồi.
Phá Vân bữa nay mắc ở lại sửa xe đò cho một hãng xe tư nhân ở Anh Vũ Sơn nên không thể lái giùm được; có chú đi cùng thì mọi người đỡ lo hơn.
Tạ Khắc Xương mở bản nhạc "Tháp Mười - Quê hương tôi" của nhạc sĩ Đồng Tháp - Tô Thanh Tùng và do Hương Lan trình bày lên nghe, trong lúc đợi mọi người cài xong dây đai an toàn.
"Ai có qua miền đồng bằng sông Cửu Long
Xin ghé lại quê hương tôi, quê hương Đồng Tháp Mười
Quê hương tôi có những con người chất phác
Biết thương người, biết chiều chuộng khách
Biết chiều chuộng khách như chiều người yêu..."
Đã đến "xứ sen thơm" tươi đẹp, Tạ Khắc Xương bèn hỏi mẹ con thím Tám Đề rằng anh nên gởi xe ở đâu.
Thím Tám Đề liền đáp ở nhà mình, đất ở đó rộng thiếu cha gì chỗ đậu.
Vốn đã quen sáo ngữ chốn thị thành nên chàng luật sư được phen cười sặc sụa.
Mảnh đất hương hỏa ấy nằm đâu mặt với bờ ruộng ngút ngàn xanh.
Đường vẫn chưa được trải nhựa hay lót đan nên sình lầy dữ lắm, chẳng mấy chốc mà chiếc xe Lexus trắng tuyết đã trở thành con chó đốm thứ 102.
- Thím ơi...!Cây cầu nhà thím chịu đựng được sức nặng của cái xe này không dợ?
- Dư xăng con.
- Sao con thấy "hiu" quá?
Thời may chiếc xe sang trọng qua cầu bình yên vô sự.
Thím Tám được dịp khoe rằng năm nào nhà cũng bồi đắp mấy cái mống cầu nên cái cầu chắc dữ lắm, voi đi qua còn chưa sập chớ đừng nói chi là mấy cái xe như vầy.
Chàng luật sư Cao Đài nghĩ bụng, nếu lỡ nó có rớt xuống dưới thì cười huề luôn chớ biết bắt đền sao giờ.
Đôi vợ chồng ấy đang ngồi nói chuyện với chú Tám Đề.
Sắc mặt nhìn dễ ưa hết sức.
Người nào người nấy oán thán hỏi rằng gia đình họ đã làm nên tội tình gì mà phải đẩy gia đình họ vô chỗ chết.
Chú chỉ biết nín thinh chịu trận chứ không biết lấy lời chi đáp lại.
Luật sư Xương và Trì Thương hết lời khuyên giải, đôi vợ chồng ấy mới nguôi ngoai được một chút, rồi thì vợ chồng bảo nhau coi lại hồ sơ sang nhượng đất đai lẹ lẹ để còn về nhà lo cho con cái.
- Ủa? Sao lại có giấy này? - Người chồng trợn mắt nhìn luật sư Xương.
- Dạ, bên phía thân chủ của tôi rất mong vợ chồng anh sẽ chấp nhận khoản bồi thường thiệt hại này mà không đi khiếu kiện cậu Nguyễn Thành Tín.
Người vợ nắm lấy tay chồng mà lay lấy lay để:
- Thôi mà mình, nhiêu đây cũng hời quá rồi, còn làm khó làm dễ người ta chi nữa.
- Để cho tôi đọc kỹ lại lần nữa rồi hai mình hẵng ký.
Trong lúc chờ người chồng kiểm tra nội dung, thím Tám Đề mời hai vị Tăng sĩ Theravada xuống nhà sau ăn vịt nướng kèm xôi hấp lá sen; còn hơn bốn mươi lăm phút nữa là hết giờ Thọ Thực nên hai vị được ưu tiên dùng bữa trước.
Mới vừa đọc Kinh xong, chưa kịp cầm đũa lên ăn, hai huynh đệ đã nghe chú Tám nói:
- Hai Thầy ở lại ăn cơm với thằng Tín nghen? Tôi với bả phải đưa cô - cậu này tới coi miếng đất đó...
Châu Lợi và Trì Thương chắp tay mà cúi đầu từ giã chú Tám.
Hỷ Tín kéo ghế ngồi xuống rồi chắp tay mà đọc một câu Kinh tán thán danh xưng của Phật - Pháp - Tăng trong đầu.
Trì Thương hỏi:
- Ai đã xui cậu uống cái thứ đó khiến cho bị câm vậy?
Hỷ Tín không trả lời.
- Cậu coi người này như huynh đệ, người này coi cậu như cỏ rác, mắc nợ mắc nần cỡ nào mà phải lao tâm khổ tứ giấu giùm vậy?
Hỷ Tín vẫn không trả lời.
Châu Lợi xen vào hỏi:
- Quyết định đi tu sám hối hay là đi luôn?
Hỷ Tín giơ hai ngón tay, ám chỉ vế số Hai.
- Trả nợ ân tình kiểu này chỉ khiến gây thêm nhiều án oan nữa.
Người biết không tố giác, người có tội lại quanh co chối.
- Thời hạn thử thách là ba năm.
Hết kỳ rồi muốn đi tu luôn cũng không trễ.
Hỷ Tín chắp tay cúi đầu thưa hai người Thầy tương lai.
Đêm đó, hai vị Tăng sĩ nhờ một người dân trong vùng đưa mình đi ngao du sơn thủy bằng đường sông nước.
Chiếc ghe bầu có bề ngang hai mét, được thắp sáng bằng hai cái đèn măng-xông cổ trên nơi trần "nhà", bốn bề ngổn ngang dụng cụ đóng đáy và sinh hoạt thường nhật.
Khi họ đến nơi, cuốn băng cát-sét đang phát tới bản "Người về đêm mưa" do Nhật Trường ca, đây là một sáng tác của nhạc sĩ Ngân Giang.
Còn vợ chồng ông Tư Thí đang ngồi ăn cơm tối với tô canh chua bông sua đũa nấu với tép mòng, giá, đậu bắp, khóm, kèo nèo, cà chua và ngò gai, tộ cá bống kho tiêu và dĩa hột vịt xào đậu rồng.
- Ăn cơm, xuống ăn cơm mấy Thầy.
- Ông Tư Thí lật đật nhỏm người lên mời.
Châu Lợi quỳ xuống mà chắp tay thưa:
- Chúng tôi chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thưa thí chủ.
Huynh đệ tôi thành thật cảm ơn tấm lòng mà vợ chồng các vị đã dành tặng cho.
- Đợi ăn hết bữa cơm rồi mình đi nghen?
- Dạ.
Kế đó, hai huynh đệ mới ra mạn ghe ngồi, tức là ở phía mũi ghe.
Bữa nay trăng chưa Rằm mà đã sáng rực, một mảnh Thượng Huyền nằm đung đưa theo từng lớp sóng mây màu khói mỏng trên thinh không gió lộng, tiếng ve sầu hãy còn kêu râm ran quanh đây.
Những nhánh bần trổ bông trắng ngần sà xuống sát mặt nước, vừa hay chiếc ghe bầu đậu gần bụi bần nên hai huynh đệ cách tuổi nhau như cha - con được thưởng lãm hương thơm man mát, bình dị của thứ cây giữ bờ này.
- Đệ có Thiên Nhãn, đệ thấy sao về quyết định của Hỷ Tín?
- Lần này là Thật.
Nhưng vẫn phải thực hành theo quy tắc mà Đấng Thế Tôn đặt ra: Đầu tiên phải được sự cho phép của cả cha lẫn mẹ, tiếp nữa là phải trả qua ba năm tu học rồi mới chính thức làm Tỳ-Kheo.
- Tại sao Hoàng Kỳ và Thủy Diệu lại có thể xuất gia được?
- Bởi vì "hoa Ưu Đàm" đã nở.
Ăn xong bữa cơm, chú Tư Thí giựt "cần số" lên, rồi để mặc chiếc ghe bầu thung dung rẽ nước.
Đôi mái chèo nằm buồn hiu ở mũi ghe.
Tuy rằng đang buổi tân kỳ nhưng đèn đường vẫn hết sức hiếm hoi ở hai bên bờ sông.
Nhà dân san sát nhau, lấn ra lòng sông khá nhiều nên con sông trở nên chật hẹp và khó di chuyển.
Thỉnh thoảng, đôi vợ chồng và hai Tăng sĩ lại thấy cảnh lui cui rửa chén trên phần nhà cất thêm của ai đó.
Đến chân cầu "từ tâm", chiếc ghe chở thêm con trai của vợ chồng chú Tư Thí.
Anh ta là thầy giáo dạy Toán cho một ngôi trường Cấp Ba gần đây; vì lương tháng không đủ sống nên phải đi dạy kèm và đi giao thủy sản phụ ba má.
Sau khi thưa hỏi hai Tăng sĩ và đấng sinh thành, Nguyễn Từ Chương mới ngồi xuống ăn cơm.
Anh ta ngồi khoanh chân, lưng dựa sát vách ghe, cái đèn măng-xông đã được dời sang chỗ khác để anh ta không bị đụng đầu và chói mắt.
- Má có chiên sườn đó...
Nguyễn Từ Chương cau mày trách:
- Sao ba má hổng ăn đi mà chừa con làm chi?
Thím Tư Thí khoát khoát tay:
- Ui, tao với ba mày già rồi răng cỏ yếu lắm, nhai thịt đau hàm lắm.
- Nhai thịt không nổi mà lừa xương cá nổi!
Đôi vợ chồng chỉ biết cười giả lả cho qua chuyện.
- Có tiền mua dầu không?
Chú Tư Thí gật đầu liền:
- Còn.
- Thôi con hùn vô hai trăm.
Độ rày xăng - dầu tăng giá, ba má đóng đáy suốt ngày dư được mấy đồng đâu mà còn tiền đổ.
Chú Tư Thí cự nự:
- Nghe đâu giảm rồi mà...
- Giảm mà vật giá có giảm theo đâu.
Ăn vừa xong bữa cơm, trăng cũng đã ngả sang phía Nam.
Lúc này gió hiu hiu thổi, đưa hương mạ non dìu dịu từ cánh đồng gần đó ùa tràn vào chiếc ghe bầu bé mọn.
Trên trời sao đặc rật, muốn tìm một khoảng trống thật khó khăn.
Vài tiếng cú đêm reo lên buồn thảm nơi những ngọn cây mù u và sầu đâu mọc ven con lộ vắng tanh.
Những ngôi nhà mọc chồm ra mé sông chỉ còn vài căn sáng đèn, có căn đèn không sáng nhưng vẫn có tiếng người rủ rỉ rù rì với nhau hay âm thanh phát ra từ cái truyền hình, điện thoại di động và một số thiết bị điện tử khác.
- Có ai trong hai Thầy biết chơi cờ tướng không?
Trì Thương nhận lời.
Đánh ván nào, Từ Chương thua Trì Thương tới đó.
Nước đi của người Tăng sĩ ấy vô cùng khó đoán và rất dễ khiến đối thủ rơi vào cái bẫy ỷ y, tức là hễ đối thủ của chú cho rằng chú đi sai nước cờ thì y như rằng chỉ sau vài bước nữa đối thủ của chú sẽ bị chú chiếu Tướng hay mất đi một quân cờ quan trọng.
Con trai của chú thím tức mình thách Trì Thương chơi thêm ván nữa.
Và lần này, Từ Chương vẫn đại bại như cũ.
- Thầy có tham gia đội tuyển nào không?
- Không.
- Chơi giỏi quá đi mất.
Tức ơi là tức.
- Tại tức nên mới thua đó.
Mất không luyến tiếc, bị dồn vào đường cùng không rối trí, thì sẽ dễ chuyển bại thành thắng hơn.
- Vậy để tôi bình tâm lại rồi mình đánh ván nữa nghen?
- Sadhu.
Cái máy cát-sét đang phát tới bài "Tiếng hờn trong gió" của nhạc sĩ Văn Thanh và do Chế Linh ca.
Đang thua mà nghe ca khúc này càng khiến Từ Chương buồn thúi ruột gan hơn.
Anh ta rầu rĩ mà năn nỉ cha già dấu yêu làm ơn làm phước tắt nhạc.
- Giờ mày muốn "Xuất quân" của Phạm Duy phải không?
- Không.
Um sùm.
Người ta mắng vốn chết luôn.
...
Trì Thương ngẩn người nhìn hộp bánh Chocopie và phong kẹo "M&M" một đỗi.
Lời nhắn trên đó càng khiến chú bần thần: "Em gởi quà sinh nhật cho anh trước." Hoàng Lan nhớ như in những gì mà chú đã tâm sự năm đó, về niềm ước ao có những món đồ ngọt kể trên đặng ăn cho đã thèm.
- Mấy đứa muốn ăn không?
Mấy đứa nhỏ giao thơ mừng rơn nhảy cẫng lên.
Trì Thương tùy nghi để xấp nhỏ chia phần bánh trái.
Về phần mình, chú ráng hết sức hồi tưởng coi mình có lỡ miệng hứa hẹn chi không để sự việc thành ra nông nỗi này; không có gì hết, tất cả chỉ là mộng tưởng của Hoàng Lan mà thôi.
- Tôi muốn anh tìm giúp tôi một bài hát nào có thể...
- "Lời cuối" do Ngọc Lan ca, một sáng tác của nhạc sĩ Từ Công Phụng.
- Cho tôi coi phần lời cái.
Đôi lông mày của người Tăng sĩ tên Thảo thoáng nhíu mày.
Chú khoát tay từ chối gởi cho Hoàng Lan.
Bữa nay Stephen Đoàn theo chân nhóm Tăng sĩ về Cà Mau dự đám giỗ má của Châu Lợi, tức cụ bà Lê Thị Mỹ Hà.
Để cảm ơn Phá Vân đã sửa xe cho mình, ông Tư Son xin chở nguyên đoàn xuống đó mà không cần chi bất cứ khoản tiền nào.
Theo sự sắp xếp ban đầu thì Stephen Đoàn ra băng trước ngồi với ông tài-xế, băng kế là Châu Lợi và Trì Thương, băng tiếp nữa là Phú Lâm, Phá Vân và Thanh Liên, còn băng chót là Đoạn Trần, Thủy Diệu và Hoàng Kỳ.
Do Stephen Đoàn không mặc áo Dòng và khoác áo gió cao tận cổ nên ông Tư Son tưởng lầm rằng chàng là Phật tử, tới chừng anh lấy sợi dây chuyền Thánh giá ra cho ông coi ông mới biết mà rối rít xin lỗi.
- Ngồi được không Raymond? - Đoạn Trần lên tiếng hỏi Hoàng Kỳ.
- Hơi chật xíu.
- Trời ơi Thầy cao gì mà cao dữ vậy?
Châu Lợi biểu hai ông thần cao kều Thủy Diệu và Hoàng Kỳ lên chỗ của mình và nhị sư đệ ngồi.
Thủy Diệu cao gần mét chín, còn Hoàng Kỳ vượt qua mức hai mét, nên hai người đi đâu cũng gây sự chú ý và kiếm chỗ ngồi rất khó khăn.
Cũng may chiếc xe này là Toyota - Hiace mười ba chỗ nên Hoàng Kỳ và Thủy Diệu lên băng thứ ba ngồi, vị trí này có khoảng trống khá rộng nên hai người mặc sức duỗi chân.
Băng thứ nhì thì để cho Thanh Liên ngồi.
Băng thứ tư là của Phú Lâm, Phá Vân và Đoạn Trần.
Còn băng sau rốt là của Trì Thương và Châu Lợi.
Hoàng Kỳ sung sướng reo lên:
- Lâu lắm rồi mới được ngồi xe mà thoải mái như vầy.
Trước giờ toàn ngồi bó gối như cá mòi đóng hộp.
Thanh Liên bật cười nhắc nhở:
- Lát tới trạm dừng phải đổi chỗ cho Thủy Diệu đó.
- Rồi, biết rồi.
Stephen Đoàn đã yên vị ở băng đầu tiên.
Đáng ra Phá Vân lên ngồi băng này để dễ bề hỗ trợ cho ông Tư Son, nhưng anh ta biểu anh chưa từng xuống Cà Mau chơi thì nên ngồi ở đó đặng ngắm phong cảnh cho rõ hơn.
Phá Vân nói vọng lên:
- Xe dầu đổ dầu, xe xăng đổ xăng.
Nếu đổ lộn thì hãy mau hút hết nhiên liệu đó ra, đừng quýnh lên mà cho nổ máy vì làm như vậy sẽ khiến cho chiếc xe bị chết luôn.
Sau đó về súc - xả lại kỹ lưỡng, nhớ phơi khô đàng hoàng rồi mới tiếp nhiên liệu.
- Dạ...!Nhờ có Thầy mà chiếc xe của tôi mới được cứu.
Cái thằng ăn hại nhà tôi đổ lộn có một cái mà chút xíu nữa đi bán lúa giống.
- Nếu sợ bị lộn thì nên đề ở nắp bình xăng tên loại nhiên liệu mà xe đang xài.
- Chí lý!
Vẫn như lần trước, Trì Thương biểu Stephen Đoàn và ông Tư Son muốn nghe cái gì thì cứ nghe, đừng sợ làm phiền lòng huynh đệ của chú.
Vừa cho đĩa nhạc vào radio, ông Tư Son vừa hỏi:
- Sao tôi thấy mấy Thầy đắp áo cà-sa ngược?
Thanh Liên nhận phần trả lời:
- Để nói lên rằng chúng tôi không theo Giáo hội, tổ chức hay đoàn thể nào hết.
Chỉ trừ khi nào tham dự những cuộc gặp gỡ lớn trong Phật Giáo, chúng tôi mới mặc đúng kiểu mà kinh điển quy định.
- Hèn chi...
Đoạn Trần cười buồn mà biểu:
- Không biết tôn giả Đại Ca-Diếp và A-Nậu-Lâu-Đà mà sanh ra trong thời này thì sao há? Hai Ông tu tập nơi hẻo lánh, lấy rừng làm tịnh thất, lấy núi làm cổng rào, lấy bầu trời làm nóc nhà, lấy cây trái làm thức ăn lót lòng, lấy sông - suối - ao - hồ làm nước uống...
Phú Lâm trình bày:
- Không hiểu với đôi mắt mù lòa, tôn giả A-Na-Luật đã sống trong rừng núi một mình ra sao.
Hoàng Kỳ cười:
- Vậy mà Ông lại có Thiên Nhãn.
Thanh Liên tiếp:
- Bất cứ ai cũng có thể có Thiên Nhãn, nhưng đa phần không thể giữ được Tâm Thiện khi sở hữu nó, hầu hết đều biến thành Đề-Bà-Đạt-Đa.
Trì Thương gật gù:
- Tất-Đạt-Đa hay Đề-Bà-Đạt-Đa là ở mình, đừng đổ thừa ngoại cảnh.
Ông Tư Son cười khúc khích:
- Nhưng phần đông thầy tu ở cái xứ này đi theo Đề-Bà-Đạt-Đa chứ hổng có đi theo Tất-Đạt-Đa.
Thông qua kiếng chiếu hậu, ông tài-xế và chàng tu sĩ Công Giáo thấy được sắc diện bình thản và an nhiên của nhóm Tăng sĩ Theravada.
Ông tài-xế bẹo gan hỏi:
- Sao mấy Thầy hổng giận?
Thanh Liên đáp:
- Chúng tôi tự xét thấy mình không phải như vậy thì mắc gì phải để bụng hay nổi xung?
Châu Lợi bổ sung:
- Thường thì "Có tật mới hay giựt mình".
Không biết nhớ tới ai mà ông Tư Son phá lên cười sằng sặc, rồi vừa quẹt nước mắt vừa điều khiển bánh lái.
Sau một hồi "thử máy", Stephen Đoàn chọn bài "Tình nghèo" do Ngọc Lan ca; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt theo giai điệu của bài hát Hy Lạp "Ta Pedia tou Pireá (The Children of Pireá)" của nhạc sĩ Manoz Hatdjidakis.
Ông Tư Son tấm tắc khen:
- Nghe vui tai thiệt.
Hoàng Kỳ bồi hồi kể:
- Thời tôi còn đi học, bài hát này thịnh hành lắm.
Rồi người Tăng sĩ đen thui ấy lẩm nhẩm hát vài câu trong bài "Never on a Sunday" của tác giả Billy Towne, nhạc sĩ này đặt lại lời Anh từ ca khúc Hy Lạp trên.
Thủy Diệu cũng bùi ngùi lây:
- Không dễ gì dứt bỏ quá khứ há Raymond?
- Phải.
Stephen Đoàn thấy bài "Búp-bê bằng sứ" do Ngọc Lan ca nên bấm sang nghe.
Theo như lời Xuân nói thì nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ tình khúc "Une poupeé de porcelaine" của nhóm tác giả Daniel Vangarde - Claude Carrère - Jean Schmitt - Jean-Claude Petit.
Đây là nhạc chuông điện thoại của Xuân.
Có lẽ làm búp-bê còn hơn làm một cô gái đau khổ trăm bề.
Châu Lợi nói:
- Có một số người hay đem một bức ảnh chụp một nhà sư Tây Tạng và khăng khăng cho rằng đây là chân dung của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đấng Thế Tôn đản sanh ở Nepal, trước đây vùng này thuộc Ấn Độ cổ, thành ra mức độ khuôn mặt Ngài giống Ấn Độ cao hơn Tây Tạng rất nhiều.
Tôi không hiểu dựa vào đâu họ lại cho rằng một người đàn ông có đường nét rặt khuôn Tây Tạng lại là Ngài được.
Trì Thương tiếp:
- Vả chăng, có thuyết bên Ấn Độ Giáo cho rằng Đấng Thế Tôn là hóa thân của Chúa Vishnu.
Nếu như Ngài không có nét giống Ngài Narayan, một vị Thần Tối Cao của Ấn Độ cổ, thì làm sao lại có thuyết trên được.
Stephen Đoàn lên tiếng:
- Bên tôi cũng có nhiều người đưa hình này - hình kia về Đức Chúa Jesus, nhưng chưa có tấm nào và thuyết nào đủ cho tôi tin tưởng hết.
Rồi chàng Linh mục ướm hỏi:
- Mấy Thầy có biết tại sao dân Ấn lại thờ bò không?
Người trả lời là Phú Lâm:
- Bò thần Nandi là thú cỡi của Chúa Shiva, thành ra đại đa số dân Ấn rất tôn thờ con bò.
Ngoài nhiệm vụ là thú cỡi, mỗi bận vợ chồng Chúa Shiva - Nữ Thần Parvati hục hặc lẫn nhau, ổng lại kiếm chước dàn hòa cho hai vị ấy; có lần còn khăn gói đi kiếm bà chủ về cho ông chủ nữa.
Những lúc cần kíp, ông có thể biến thành hình người hoặc con vật theo ý muốn của bản thân hoặc vợ chồng chủ nhân.
- Mèn đét ơi...!Bò mà còn dễ thương hơn mấy con mẹ hàng xóm, mỗi bận vợ chồng tôi gây lộn, tụi nó còn xúm lại bơm thêm cho cháy nhà luôn.
Phú Lâm gật gù:
- Thành thử ra, nhiều người giận vì bị ví với con bò, chớ tôi thấy con bò dễ thương mà.
Stephen Đoàn lại hỏi:
- Trong Ấn Độ Giáo, có tích nào lạ kỳ không Thầy Lâm?
- Có, mà nói ra ngại lắm.
Được sự cho phép của hai vị Trưởng lão, Phú Lâm mới tiếp:
- Có một tích truyện dân gian nói rằng Chúa Vishnu và Chúa Shiva có con với nhau, lúc đó Ngài Narayan biến ra một hóa thân hình nữ có tên là Mohini, và Ngài Mahadev biến ra một hóa thân vẫn giữ hình nam có tên là Kameshwara.
Và người con này là Chiến Thần Ayyappa giúp thế giới tiêu diệt quỷ dữ.
Nguyên nhân thành hình chuyện này bắt nguồn từ lời giao kèo của con quỷ cái với Chúa Brahma: Sau một quá trình thiền định và tụng niệm danh hiệu của Ngài Phạm Thiên, bà ta được ban cho một ân điển.
Song những sở nguyện mà bà ta trình bày với Ngài đều bị Ngài từ chối vì nó bất chánh và đầy dẫy ác ý với thế giới.
Cuối cùng, bà ta xin được trường sinh, và chỉ có thể bị tiêu diệt bởi đứa con chung của Ngài Vishnu và Ngài Shiva; Ngài Phạm Thiên giơ bàn tay lên xác nhận ban cho.
Bà ta đinh ninh hai Ngài là đàn ông thì...!sao mà có con chung được nên hả hê lắm.
Những ngày tháng tiếp theo bà ta cùng bầy thuộc hạ gây họa cho nhân gian và cõi Trời.
Nhưng rồi mưu gian không duy trì được lâu...
Theo một dị bản, về sau, nhờ Thần Ayyappa cải hóa mà nữ Quỷ Mahishi đã trở thành Nữ Thần Leela.
Bà nguyện được làm vợ của Thần, nhưng không được Thần chấp thuận.
Thần giao kèo rằng chỉ khi nào không còn một tín đồ viếng thăm và cầu nguyện dưới danh hiệu của mình, lúc đó Ngài mới đồng ý cưới Bà.
Hiện thời, theo niềm tin của một số thuyết Ấn Độ Giáo, Bà vẫn còn chờ Thần ở đền Mallikapuram.
Đặc biệt, ngôi đền này nghiêm cấm phái nữ bước vô; có người cho rằng vì Thần sống đời độc thân, lại có người nghĩ Thần có xu hướng giống như Cha mình nên muốn tu hành khổ hạnh.
Stephen Đoàn bật cười khanh khách, rồi gãi đầu đỏ mặt ngượng ngập.
Đã tới Kiên Giang, đồng hồ đã điểm hơn chín giờ rưỡi nên ông Tư Son bèn mời nhóm Tăng sĩ và chàng Linh mục tìm quán nào đó ăn cơm.
Sau một lúc tra cứu trên mạng không ra, ông Tư Son chọn đại một cái quán lưa thưa khách để mọi người vô ăn.
Sự xuất hiện của nhóm Tăng sĩ đã làm thực khách lẫn chủ quán ngạc nhiên, nhưng ai nấy chỉ đưa mắt ngó mà không nói năng gì.
- Kỳ, Diệu.
Nghe Thanh Liên gọi, hai Tăng sĩ ngoại quốc đồng thanh dạ một tiếng.
- Ăn cái gì được thì cứ kêu.
Chữ nào không rõ nghĩa thì biểu Trì Thương dịch giùm.
Hoàng Kỳ hỏi:
- Ai trả tiền?
- Mẹ tôi mới gởi xuống một ít, dư sức trả.
- Vậy thì tôi cũng không khách sáo.
Ông Tư Son mừng húm, thiếu điều muốn nhảy lên ôm hun người Tăng sĩ đáng tuổi em mình mấy cái.
Đã đi xa lỗ tiền xăng - dầu rồi, mà còn bao ăn nữa, ai chịu cho nổi?
Stephen Đoàn chưa kịp mở miệng đã bị Thanh Liên chặn lại trước:
- Thầy muốn ăn món chi cứ gọi, tôi trả tiền cho.
Stephen Đoàn nhếch miệng cười khổ:
- Bao nhiêu mà sung dữ vậy?
- Mười ngàn.
Mới nghe số tiền xong, ông Tư Son liền gọi những món đặc sắc nhứt của quán, như nhum nướng mỡ hành, gỏi cá trích, lẩu nấm, cà xỉu,...
Về phần nhóm Tăng sĩ, họ chỉ ăn loại thịt nào đã chế biến sẵn và không phải vì mình mà chết nên không ăn chung phần với Stephen Đoàn và ông Tư Son.
Thành ra thực đơn mà họ lựa chọn chỉ trong vòng năm loại là hủ tíu hấp, bún cá Rạch Giá, cơm ghẹ Phú Quốc, bún kèn Kiên Giang và bánh canh ghẹ - chả.
Bà chủ quán hết hồn hỏi sau khi đã ghi toa:
- Mấy Thầy đây...!ăn mặn?
Thanh Liên trả lời:
- Phật Giáo Nguyên Thủy cho phép ăn mặn, miễn sao không vi phạm vô ba điều cấm, tức Tam Tịnh Nhục: Không ăn loại thịt vì mình mà chết, không ăn loại thịt nghi ngờ vì mình mà chết và không ăn loại thịt gián tiếp vì mình mà chết.
Ngoài ra, một ngày chỉ ăn một bữa, trước Chánh Ngọ, mà thôi.
Ông chủ quán cắc cớ hỏi:
- Sao biết không phạm vô ba điều cấm mà ăn?
- Rất đơn giản: Chúng tôi vô quán của gia đình của thí chủ ăn một cách ngẫu nhiên, thành ra chúng tôi không vi phạm vô ba điều cấm trên.
Chừng nào tôi gọi một con cua hay con cá còn sống, hoặc là thí chủ đợi tôi vô rồi mới tự ý chọn con cua hay con cá còn sống để chế biến thành món ăn, khi ấy mới phạm vô ba điều cấm trên.
Ông chủ quán hỏi nữa:
- Sao Thầy chắc chắn rằng những món Thầy vừa gọi không vi phạm vô ba điều cấm?
- Tôi đọc thành phần nên tôi biết.
Những món ăn này chế biến rất cầu kỳ và lâu lắc nên không thể nào đợi có khách rồi mới mần thịt được; hễ khách kêu là có thể bưng lên liền, không cần trải qua khâu sơ chế phức tạp và đổ máu nào nữa.
Ông chủ quán bật ngón cái, tỏ vẻ đã tâm phục khẩu phục.
Stephen Đoàn đã thấm thía lý do mà Thanh Liên được nhóm Tăng sĩ tôn xưng là Trưởng lão.
Cái miệng này đấu với tổ hợp luật sư mà không thắng chắc mặt trời hôm đó mọc ở hướng Tây!
Nhưng những thực khách không buông tha cho nhóm Tăng sĩ, có người còn lén ghi hình lại để đăng lên mạng.
Châu Lợi nhìn Stephen Đoàn mà cười biểu:
- Lo ăn đi...!Giác quan là của người ta, tâm can là của mình.
- Dạ.
Lâu rồi Stephen Đoàn mới có được bữa đồ biển tươi ngon và phong phú nhường vậy.
Nhớ hồi mẹ còn sống, mỗi bận có dư chút đỉnh bà sẽ mua cua biển về hấp cho cha - con anh ăn.
Tới chừng bị bệnh nặng, bà vẫn dành ra một khoản tiền để nấu cho anh những bữa ăn thịnh soạn, nhưng vì chứng ung thư nên không có món nào nuốt được.
Thanh Liên hỏi:
- Thầy ăn bánh tằm bì không?
Stephen Đoàn rùng mình cười tươi:
- Có nước cốt dừa ở trỏng nên tôi không ăn đâu.
Lần trước giữ cầu ở Kiến Hòa tởn rồi.
Thanh Liên biết sức ăn của Hoàng Kỳ rất khỏe nên nói muốn ăn gì thì ăn thêm đi.
Vậy là đồ đệ của chú bèn kêu thêm một phần cơm ghẹ cỡ lớn.
Đến chừng ăn xong thì ngoài trời đã sa mưa dông, nguyên đoàn đành nán lại đợi trận gió dữ qua đi.
Đoạn Trần nhắc nhở:
- Lát xuống dưới nhớ đắp y lại.
Che kín cả hai vai.
Nhớ đó.
- Sadhu...
Một vài người thấy Thủy Diệu quá đỗi đẹp đẽ nên ngỏ ý chụp hình chung.
Chú cũng vị bụng chụp chung vài tấm.
Nhưng vì chiều cao của Thủy Diệu nên họ lại phải nhờ cậy Hoàng Kỳ chụp giùm.
Xuống tới Cà Mau thì trời đã bắt đầu nhá nhem tối.
Một phần do đã xế chiều, phần vì cơn mưa dai dẳng gây ra.
Hoàng hôn đâu không thấy, chỉ thấy bóng tối chập chùng bủa vây.
Ông Ba Son nhìn con đường rỗ mặt phía trước mà xót ruột, đi về chuyến này lại phải tốn mớ tiền bảo trì xe.
Giọng ca của Hà Thanh trong bài "Trầm hương đốt" của nhạc sĩ Bửu Bát đón Tăng đoàn, chàng Linh mục và ông tài-xế vào tư dinh của thương gia họ Hồ.
Tuy Hồ Ngọc Châu đã gần trăm tuổi nhưng vẫn còn sức đi ghẹo gái và bòn tiền thiên hạ, nên nguyên vùng không có lấy một người ưa khứa.
Hồ Đại Lộc và Hồ Đại Thành hay tin anh Hai về thì nửa mừng nửa nghi.
Nghe đâu bây giờ đi làm thầy chùa giàu dữ lắm, không biết anh Hai của họ kiếm có bộn không?
Chừng thấy Hồ Đại Lợi đi chân không, trên thân đắp cà-sa kín gần hết cả người, chỉ đem theo một giỏ đựng một bó sen hồng, thì hai người khinh ra mặt.
Sau khi lại bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ và Chư Phật - Bồ-Tát thắp nhang, Châu Lợi quỳ rạp xuống đảnh lễ từng bàn thờ một.
Bó sen hồng mà chú kỉnh má được phân làm hai, mỗi phần được bày trang trọng trong cái độc bình trên bàn thờ.
Xong xuôi hết thảy, Châu Lợi chỉnh sửa lại trang phục rồi day lưng lại và đi một hơi ra ngoài cửa.
Bà hàng xóm, tức bạn thân của bà Lê Thị Mỹ Hà, hớt hải níu áo thằng nhỏ hay chạy qua nhà cụ xin cục đường thẻ để ăn:
- Con ơi, ông già con có bậy, anh em con có bạc tình bạc nghĩa đi chăng nữa, con cũng hãy vì má con mà rộng lòng bỏ qua cho họ, mà ở lại đây nói chuyện chơi với thím Hai nghen?
Châu Lợi chắp tay thưa thím Hai:
- Duyên của con với cái nhà này đã tận, hà cớ gì phải luyến lưu chứ? Nếu thím Hai có chuyện cần nói với con, xin thím vui lòng dời gót đến tịnh thất mà Tăng đoàn con đang lưu trú.
- Ở đâu?
Châu Lợi dúi vào tay thím Hai một mẩu giấy nhắn.
Lời sau chót, ông nói:
- Năm xưa Đấng Thế Tôn từng khuyên ba vợ nên sửa tâm tánh để tránh sa vào Địa Ngục mà ông ta có nghe đâu.
Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã từng hết lời can gián mẹ ruột mà cũng chẳng thành công, sau này Ông lại phải lao tâm khổ tứ cứu chuộc mẹ ruột thoát khỏi sự đày ải nơi Địa Ngục.
Một người là Phật và một người A-La-Hán mà còn không thể lay chuyển Nghiệp Ác và Ý Bất Thiện của chính người thân của mình, thím Hai nghĩ con làm sao cứu nổi?
Không cầm chân được đứa nhỏ mà mình thương như con đẻ, thím Hai che miệng khóc tức tưởi rồi mếu máo hứa rằng ngày mai sẽ xuống thăm nó liền.
- Đi vệ sinh hết chưa? - Châu Lợi cất tiếng hỏi trong khi bước vô chiếc xe Toyota - Hicae.
Hết thảy đều trả lời, "Xong rồi."
Đi thêm một chặng nữa, tới gần tám giờ tối, nguyên đoàn đã đến tịnh thất ở cầu Rạch Lùm.
Ghé rồi mới hay đây là nhà của một cư sĩ Phật Giáo Nguyên Thủy, nguyên nhà sống bằng nghề bán đồ chay, năm nay đã ngoài bốn mươi.
Nhà cửa vừa là nơi ở vừa là xưởng sản xuất và bán hàng; hai khu vực được ngăn chia bằng một khoảnh sân lộ thiên rất rộng lớn và bày đầy cây kiểng; sau hè có bể lọc nước sinh hoạt, hệ thống chế biến nước thải và thùng-phuy chứa nước sạch.
Chiếc xe của ông Tư Son đậu ở nhà để xe cất ở mé tay trái khu nhà trước.
Ban ngày nơi này là nhà để xe của khách và bạn hàng, còn ban đêm thì để không.
Trì Thương cười hỏi:
- Có chuyện chi mà cư sĩ giận vậy?
- Bên Bắc Tông làm sai mà bên Nam Tông phải hứng chịu xú uế theo.
Trì Thương vừa sửa lại vai áo vừa nói:
- Họ còn chẳng biết Bắc Tông và Nam Tông khác biệt như thế nào thì chấp làm gì.
Vả chăng, chúng ta theo Nguyên Thủy Phật Pháp, thành ra đừng tự cho mình là Nam Tông.
- Dạ.
Khu nhà sau cất kiểu nhà lầu ba tầng, có cả sân thượng, một gian thờ Phật, một dãy phòng cho khách viếng thăm, một kho lạnh để dự trữ nguyên liệu chế biến và một nhà kho để cất đồ đạc.
Sở dĩ nhà lớn như vầy là do tới ba thế hệ cùng sống chung.
Trước lúc xuống khách phòng tắm rửa và ngủ nghê, Tăng đoàn lên gian thờ Phật thắp nhang và đảnh lễ.
Stephen Đoàn đứng ở cửa hông, lối dẫn xuống nhà để xe của gia đình, mà coi Tăng đoàn bái Phật.
Riêng ông Tư Son thì đã lui xuống khách phòng.
Dãy phòng ngủ của khách nằm đâu mặt với cái ao bèo.
Để thuận tiện cho việc tưới cây, khách phòng cất ở cánh hữu và cái ao ấy ở cánh tả; vả chăng, nhà hàng xóm xây sát bức vách tay mặt nên nếu khách có ý gian thì hàng xóm có thể nghe thấy liền và kịp thời báo cho gia đình biết.
Tắm, gội đầu và thay đồ mát xong xuôi, Stephen Đoàn và ông Tư Son lên chái bếp ăn cơm tối.
Mâm cơm đương nhiên phải có món mắm ba khía trứ danh của đất miệt thứ.
Ngoài ra còn có canh khoai mỡ nấu thịt bằm, cá thòi lòi muối sả chiên, nghêu kho sả ớt, bồn bồn ngâm chua và đọt choại luộc.
Sau khi đọc Kinh và làm dấu Thánh, Stephen Đoàn vừa bưng chén cơm lên vừa thông báo:
- Ngày mai tôi sẽ ghé thăm nhà nguyện Xẽo Lá.
Ông Tư Son hỏi:
- Đi xe ngoài hả Cha?
- Dạ, con đi xe ôm, chú.
Ông Tư Son nhún vai bình phẩm:
- Ờ, chỗ đó nước nôi không, xe gắn máy vô còn khó huống hồ chi là cái xe bự chảng của chú.
Stephen Đoàn hỏi:
- Tôi vẫn chưa hiểu tại sao Tăng đoàn lại rất ít khi thuyết pháp?
Châu Lợi trả lời trong khi rót trà vào tách của mình:
- Tôi nói rồi mà, trong nhà tôi còn chưa Độ được thì mong cầu gì Độ người ngoài thành công? Thành ra chúng tôi rất ít khi thuyết pháp.
Chưa kịp uống hớp trà nào, Đoạn Trần đã bị Stephen Đoàn nắm lấy bàn tay mà vặn hỏi:
- Thầy có sáu ngón?
- Đúng vậy.
Tôi có sáu ngón.
Rồi nhìn sâu vào đôi mắt chàng Linh mục có dáng vẻ như con cò hương, Đoạn Trần cười hiền biểu:
- Và tôi không phải là người mà thí chủ muốn tìm đâu.
Vợ của người cư sĩ bước lại gần Thanh Liên mà hỏi:
- Thầy nghĩ sao về chuyện dâng sao giải hạn?
Thanh Liên phì cười, rồi dịu dàng trình bày:
- Đấng Thế Tôn có một đứa con trai, tên là Rahula - La Hầu La, sau này chứng đắc quả vị A-La-Hán từ khi còn rất trẻ.
Trong văn hóa Ấn Độ Giáo, La Hầu và Kế Đô là hai hung tinh, chuyên nuốt chửng mặt trăng và mặt trời.
Ấy vậy mà công chúa Da-Du-Đà-La lại lấy một cái tên gần đồng âm với một trong hai hung tinh này làm tên đặt cho con, chứng tỏ cả bên Ấn lẫn bên Phật chưa hề kiêng kỵ chúng, chứ đừng nó chi là tin vô chuyện dâng sao giải hạn.
Thành thử ra, ai tham gia những hoạt động này là đi ngược lại với Chánh Pháp và bất kính với Đấng Thế Tôn.
"Tin Ta mà không hiểu Ta thì đó là phỉ báng Ta."
Vợ của cư sĩ năn nỉ vị Đại Trưởng Lão kể rõ hơn.
- Số là vầy: Trong sự kiện "Biển Sữa", để ngăn các Asura uống được thuốc bất tử, Chúa Vishnu đã hóa thân thành nàng Mohini tuyệt sắc đi cám dỗ A-Tu-La.
Nhờ vậy mà các Chư Thiên và Đế Thích được uống thứ nước này.
Một trong số A-Tu-La sợ rằng mình không được uống thứ nước thần kia nên đã cải trang thành Chư Thiên và trà trộn vào hàng ngũ bên đó.
Chừng Ngài Narayan rót nước xong rồi, Thần Mặt Trăng Chandra mới phát hiện, ông liền hô hoán lên.
Song không kịp nữa rồi, Rahu - La Hầu đã nuốt hết số nước đó và trở nên bất tử.
Tức giận vì bị qua mặt, Ngài Narayan đã triệu hồi cái dĩa Sudarshana Chakra và chém đứt đầu con quỷ khôn lỏi ấy.
Kể từ lúc này, Asura đó có hai phần: Phần đầu là Rahu và Phần thân là Ketu.
Để trả thù Thần Chandra, ngay sau khi bị chém, Rahu liền nuốt chửng vị Thần hiền lành ấy vô bụng; ở đây xin dừng lại đặng giải thích cho dễ hiểu, mặc dù cái đầu không còn dính liền với cái thân nhưng chúng vẫn ăn thông với nhau, do đó sau khi Rahu nuốt xuống thì vị Thần bị nhốt ở Ketu.
Chúa Shiva bèn xuất hiện cứu giúp vị Thần ấy.
Vì đã uống thuốc bất tử nên Rahu và Ketu không chết mà chỉ bị trọng thương, chúng nhả Thần Chandra ra rồi kéo nhau bỏ trốn.
Xong xuôi mọi sự, nhằm tránh vị Thần ấy bị bắt nữa, Ngài Mahadev mới lưu giữ hình ảnh về Thần Chandra trên đầu mình, tức là một mảnh trăng lưỡi liềm ánh bạc; cứ hễ mảnh trăng này bị lu xuống, thì Ngài Mahadev sẽ biết Thần Chandra đã bị Ketu và Rahu nuốt chửng và giam giữ, mà lên đường giải cứu.
Ở một dị bản khác thì không có sự hiện diện của Chúa Shiva, thay vào đó thuyết này nói vì có đầu mà không có thân và có thân mà không có đầu nên sau khi bị Rahu và Ketu nuốt thì Thần Chandra tự thoát ra được.
Nhưng dị bản này không giải thích được tại sao Ngài Mahadev lại có mảnh trăng lưỡi liềm trên đầu.
Stephen Đoàn hỏi:
- Vậy tại sao Thần Mặt Trời cũng bị nuốt luôn?
- Vì Thần Surya là người thứ hai phát hiện ra sự giả mạo nên cũng bị ghi thù.
Nhưng, ông đủ mạnh để tự chống lại chúng, còn người em của ông thì không.
Châu Lợi xen vô:
- Đó là cách mà Ấn Độ Giáo nhìn nhận về hiện tượng nguyện thực - nhật thực.
Người cư sĩ phá lên cười:
- Hèn chi mà nguyệt thực diễn ra rất lâu, còn nhật thực rất mau.
Thanh Liên tiếp:
- Vị Thần Surya có đứa con trai tên là Shani, người này cai quản Thổ Tinh và là vị Thần Nghiệp Chướng và Công Lý.
Nhưng góc nhìn về Nghiệp của Phật Giáo với Ấn Giáo có lúc tương đồng có lúc không.
Không đi sâu vào Đạo người ta, ở đây tôi nói riêng bên Đạo tôi thôi, Đấng Thế Tôn cho rằng cầu nguyện, rửa tội trong dòng nước và vái van Thần Linh không thể chuyển hóa cũng như làm Nghiệp biến mất; ai gieo cái gì thì phải gặt cái nấy, nếu cứu được thì Đế Thích đã cứu mạng dòng tộc Thích Ca rồi.
Stephen Đoàn vừa dẻ cá vừa hỏi Thanh Liên:
- Tại sao dòng tộc Thích Ca bị tiêu diệt?
- Vì sự kiêu ngạo của một vài người trong dòng tộc và rất nhiều Duyên Khởi trong quá khứ.
Rồi Thanh Liên trở về chủ đề cũ:
- Thần Chandra có khuôn mặt phi phái tánh.
Thành ra diễn viên đóng vai của Thần luôn là những người đàn ông có thân hình lực lưỡng nhưng gương mặt và điệu bộ hơi giống nữ.
Đoạn Trần kể:
- Những Nữ Thần trong văn hóa Ấn Độ cổ rất mạnh mẽ và quyết đoán, không có người nào đợi người phối ngẫu tới cứu hết, hễ ai ghẹo gan họ là họ biến hình xử liền.
Trái ngược với sự phân tầng và kỳ thị giai cấp hiện hữu trong thời đại đó.
Phá Vân lên tiếng:
- Mà cũng ngộ thiệt, Ngài Mahadev nảy sinh tình ý khi Ngài Narayan hóa thành hình dạng Mohini mà cũng làm cho có con được.
"Đứa trẻ" đó là con quỷ bán nam bán nữ Kamasur.
Có tích lại nói hai Ngài "hợp thể" luôn.
Không hẹn mà hai người Thầy và hai sư huynh của Phá Vân liếc chú một cái cảnh cáo.
Chú hết hồn hết vía chắp tay thưa:
- Tôi đã phạm Vọng Ngữ, sẽ Tịnh Khẩu suốt đêm nay để sám hối tội này.
Thanh Liên cười khổ:
- Thôi, nói phứt ra cho rồi.
Con quỷ này tượng trưng cho sự ham muốn tình dục và phá giới - Vì Chúa Shiva là một nhà tu hành khổ hạnh và luôn ra công giữ cho bản thân được thanh tâm quả dục.
Con quỷ này từng ám Phá Vân, và đã tặng cho Phá Vân cái Quả là bị người ta vu khống mắc bịnh HIV/S.
Bữa nay nó đã quay lại nơi cửa miệng của cẩu.
Trì Thương tiếp:
- Sự ra đời của quỷ Kamasur đánh dấu một thời kỳ của những thứ và suy nghĩ tà dâm xuất hiện.
Nó khiến cho người ta bị đắm say trong ham muốn và không còn lo tu dưỡng đạo đức nữa.
Có thể người ta lập ra tích này để giải thích về những sự kiện bất chánh đã xảy ra trong thời đại mà họ đang có mặt, như loạn luân, cưỡng bức, ngoại tình, ấn phẩm đồi trụy,...!chẳng hạn.
Thanh Liên nói:
- Thường thì lên phim họ sẽ tuyển đàn ông đóng vai quỷ Kamasur, chắc là vì diễn viên nữ ngại đóng những cảnh...!gọi mời như vậy nên đoàn làm phim mới quyết định giao vai này cho nam.
Thành ra, coi y như phim hài; má tôi biểu, "Cái mặt vầy hổng biết sao mà rù quến được diễn viên nam trong phim nữa, chắc cũng nín cười dữ lắm đây."
Châu Lợi bổ sung:
- Ngoài con quỷ trên, thì Chúa Shiva còn hai người con là quỷ nữa.
Một trong hai con quỷ này muốn mẹ của anh ta là Nữ Thần Parvati làm vợ của anh ta.
Stephen Đoàn không gọi con quỷ đang đeo bám tâm trí anh là "Kamasur", thay vào đó là cái tên "Incubus".
Anh không muốn mình phạm vào điều răn thứ Sáu nên đã hãm mình trong phòng hàng đêm để quỳ trước tượng Chúa đọc Kinh Sáng Danh và lần chuỗi Mân Côi.
Xuân, tại sao nàng lại quá giống với mẹ của anh lúc sinh thời vậy?
Nhìn vào mắt chàng Linh mục, Trì Thương cất giọng an ủi:
- Anh nên mừng vì trái tim của anh đã biết rung động.
Rồi một ngày nào đó, khi tuổi của anh đã cao, da dẻ anh đã trổ đồi mồi, những rung động vẩn vơ ấy sẽ làm chỗ dựa tinh thần cho anh trong những chương cuối đời người.
- Anh có rung động với Hoàng Lan không?
- Có.
Tôi coi Lan như một người chị dâu tương lai.
Đó cũng là một dạng thương nhưng không phải tình yêu mà là tình thân.
- Anh có thể thú nhận một cách thẳng thừng mọi chuyện mà chẳng lo mích lòng ai hết.
Ước chi tôi cũng được như anh.
- Nếu như anh nghĩ những lời nói của mình có thể cảm hóa và có lợi lạc cho chúng sanh thì hãy mạnh dạn phát biểu.
Dầu cho bị người ta ghét đi chăng nữa, vẫn phải thốt lên Sự Thật.
"Sự Thật sẽ giải thoát cho anh em" có đúng không?
Stephen Đoàn mỉm miệng cười mà lệ đã hoen mi:
- Phải.
Câu này bên tôi mà.
Đoạn Trần thở dài mà kể một vấn nạn thường gặp ở các đức tin:
- Các tín đồ Ấn Độ Giáo thường chọn cho mình một vị Thần Linh để thờ tự.
Thành ra có người theo Shiva, có người lại chọn Brahma,...!Từ đó dẫn đến chuyện dựng ra những dị bản đề cao vị này - hạ thấp vị kia, khiến những ai muốn tìm hiểu văn hóa Hindu không biết nên tin và hiểu theo bên nào.
Cho nên Phật Tổ hay gọi người Ba-La-Môn là ám chỉ những hạng người theo Đạo thờ Brahma - Phạm Thiên và thuộc về giai cấp này, chứ không phải có ý xúc phạm hay phân biệt đối xử với họ.
Stephen Đoàn hỏi:
- Một trong số những điển tích hay dị bản mà Thầy Trần thấy là có ý không tốt là gì?
- Đó là Chúa Vishnu đã hóa thân thành phái nữ để quyến rũ kẻ hung ác và A-Tu-La.
Trong số những lần đó có lần Ngài có con với Chúa Quỷ Bhandasur.
Tôi thấy những mẩu truyện này quá thiên về chuyện diễm tình và có ý hạ bệ danh dự của Ngài Rarayan.
Vợ của người cư sĩ hỏi:
- Quan niệm xây chùa được phước và được phù hộ có đúng với Chánh Pháp không mấy Thầy?
Thanh Liên mỉm miệng cười hòa ái:
- Nó đúng với bên Ấn Độ Giáo nhiều hơn là bên Phật Giáo.
Vì bên Ấn Độ Giáo tin rằng chỉ cần làm đẹp lòng Thần Linh và sống chừng mực là sẽ được đáp ứng mọi sở nguyện; thành ra mới có tích Chúa Brahma ban điều ước bất tử cho Chúa Quỷ.
Còn bên Phật Giáo tin rằng Thiện Nghiệp chỉ làm giảm bớt cái Quả Báo do Nhân xấu trong quá khứ gây ra chứ không thể bứng tận gốc rễ được; thành ra cho dù có cúng kiếng, đọc Kinh hay xây chùa cỡ nào đi chăng nữa thì vẫn phải hứng chịu Nghiệp - Quả như thường.
Stephen Đoàn ngại ngần hỏi:
- Trong văn hóa Ấn Độ Giáo, ai là Đấng Sáng Thế vậy?
Thanh Liên trả lời:
- Theo thiển ý của tôi và dựa trên những tài liệu mà tôi biết qua, thì đó là Đại Thiên Nữ Aadi Parashakti, hay còn gọi là Mẹ Nguyên Thủy đã khởi sinh ra vạn vật, kể cả ba Đấng Tối Cao Brahma - Vishnu - Shiva và vợ của ba Ngài cùng các vị Devi, Deva và Asura.
Nhưng có vài thuyết lại phản bác lập luận trên và cho rằng Mẹ Nguyên Thủy không phải là người đã tạo ra ba Đấng Tối Cao.
Thành ra, như tôi đã nói với người thân của Trì Thương và Hoàng Lan, ai là Đấng Sáng Thế và tiến trình diễn ra như thế nào thì vẫn còn là một chủ đề tranh cãi chưa nguôi ở Ấn Độ Giáo.
Stephen Đoàn lại hỏi:
- Ban điều ước suông vậy sao Thầy Trần?
- Không, phải có giao kèo, nếu phạm phải giao kèo sẽ nhận lãnh cái kết thảm khốc.
Ăn xong bữa cơm đầy ắp kinh sách và tích truyện của ba đức tin Ấn Độ - Phật - Kitô Giáo, nhóm Tăng sĩ, ông Tư Son và Stephen Đoàn trở về khách phòng nghỉ ngơi.
Ngoại trừ ông Tư Son va Stephen Đoàn, nhóm Tăng sĩ ở chung một phòng.
Trước khi đi ngủ, ai nấy đều đánh răng, rửa mặt và tắm gội sạch sẽ.
"Đêm trên vùng đất lạ" đầu tiên đã khiến cho Stephen Đoàn khó bề yên giấc.
Anh đành ra ngoài ngắm sao đêm và hít khí trời.
Vừa hay ngoài đó có chạc cây bần, Stephen Đoàn bèn leo lên đó ngồi.
- Sadhu.
- À, Thầy Trần.
- Cha Tê-Pha-Nô đang kiếm một người có bàn tay sáu ngón phải không?
Stephen Đoàn nhìn người Tăng sĩ ngoài sáu mươi bằng ánh mắt nghi ngờ.
- Có lẽ người đó là con trai của tôi.
Nó cũng mang sáu ngón tay như tôi.
Nó bị tự kỷ ám thị nên khó lòng kiểm soát hành vi của mình.
- Tức là sao?
- Nó thích hành hiệp trượng nghĩa, nhưng không thích sống theo khuôn khổ pháp luật, thành ra nó sẽ xuống tay hết sức tàn khốc.
- Hiện giờ anh ta ở đâu?
- Dưỡng trí viện Biên Hòa.
Làm bảo vệ trực ở trỏng.
- Tại sao Thầy không báo án?
- Bằng chứng.
- Không phải Thầy là nhân chứng sao?
- Nhân chứng có nhưng bằng chứng không thì không đủ cơ sở để lập án chứ đừng nói chi là kết tội.
- Hỏi khí không phải...
- Sao?
- Thầy nghĩ sao về tình dục?
- Cứ phóng khoáng, cứ sống theo bản năng và cứ tự xưng mình "đạo đức thật" thì sẽ có ngày bị như Phá Vân.
Đáng ra Phá Vân đâu có sa cơ thất thế đến như vầy, chỉ vì ám ảnh chuyện đó nên ngày nay phải lánh đời đi tu.
- Bộ không ai tin Thầy ấy không bị AISD à?
- Ngủ với ngần ấy người thì sao mà thiên hạ tin nổi.
Một vì sao băng sa xuống bầu trời phương Bắc.
Rồi hai, ba vì nối đuôi nhau lao xuống.
Sau đó tắt ngúm, để lại bầu trời đêm yên tĩnh và lu mờ ánh sao.
Đoạn Trần vịn tay lên nhánh cây bần mà kể lại quãng đời trước đây của mình:
- Tôi bỏ người phụ nữ đó để rảnh tay theo đại ca.
Cô ta uất quá mới uống thuốc phá thai.
Hai má con không chết, nhưng di chứng để lại là thằng nhỏ bị ảnh hưởng hệ thần kinh.
Trên lưng của tôi vẫn còn lưu giữ tên của người phụ nữ đó, hồi chúng tôi còn mặn nồng với nhau...
Nói tới đây, Đoạn Trần kéo vạt áo cà-sa xuống để cho Stephen Đoàn nhìn thấy hình xăm ấy.
- Con trai tôi được một bác sĩ chuyên khoa Thần Kinh nuôi dưỡng.
Sau này ông ấy chết, con ruột của ổng sợ con trai tôi tranh giành tài sản nên đã dựng hiện trường giả mà phao vu con trai tôi cưỡng hiếp em gái ổng.
Nó vốn không bình thường, bây giờ còn bị chọc tức nữa, nên đã xuống bếp lấy dao tính đâm chết nguyên nhà.
Chỉ chờ có vậy, họ bèn hú mấy ông cảnh sát thân tín ập vô bắt nó.
Cũng may huynh đệ giang hồ của tôi thương tôi nên đã bảo kê cho nó trong suốt thời gian thi hành án tù.
- Hai cha con Thầy không nhìn mặt nhau sao?
- Phải.
Tôi không xứng đáng để được nó gọi là "Cha".
- Từ sai lầm trong quá khứ của mình, Thầy có nghĩ nên khuyên người khác bớt ham muốn tình dục không?
Đoạn Trần bật cười:
- Tại sao phải khuyên những người có sở thích đó bỏ sở thích đó đi?
Stephen Đoàn mời vị Tăng sĩ trạc tuổi cha anh giải thích thêm về câu nói trên.
- Người nào thực sự cần một lời khuyên thì Đấng Thế Tôn và tôn giả mới lên tiếng đáp lại.
Chứ còn những kẻ thích cà khịa, kiếm chuyện hay cái tôi quá cao thì mắc gì phải tốn thời gian cho họ; đối với hạng người này, Cha càng khuyên, họ càng làm ngược lại thôi.
Vả chăng, số phận của người nào thì do người đó quyết định.
Mình đâu có mắc nợ mắc nần mà cứ phải đi lo trum trủm hay nói ráo nước miếng để khuyến hóa họ.
Stephen Đoàn nhớ tới cái tật thày lay của mình mà bẽn lẽn gãi đầu cười trừ.
- Tôi có quen một thí chủ, chồng của người này rất ưa cổ võ phái nữ ăn mặc theo ý thích, nhưng tới chừng thí chủ này mặc củng đi dự đám cưới thì lại lớn tiếng thóa mạ rất nặng lời.
Stephen Đoàn bình phẩm:
- Miệng thì đòi nữ quyền và bình đẳng giới, nhưng người đầu ấp tay gối với mình thì đối xử hệt khuôn nô lệ thời Trung Cổ.
- Bây giờ ở trên mạng có nhiều kiểu vọng tưởng, thí dụ như, "Ai nói nhiều và hay chửi là người tốt và trung thực", "Ai văn hoa sáo ngữ là đồ đạo đức giả", "Ai phê phán chuyện tính dục là thứ thèm gần chết mà không được nên giả bộ thanh cao",...!Thế giới này là thế giới tương đối, không có cái gì là tuyệt đối hết.
Stephen Đoàn khoanh tay ngẫm nghĩ.
- Tôi có quen một nữ thí chủ bị mắc chứng bịnh ám ảnh tình dục, mặc dù chưa từng trải qua một lần quan hệ hay không may bị cưỡng hiếp.
Căn bịnh này xuất phát từ việc bị dư hormone nữ quá nhiều, khiến cho cuộc đời của cổ bị rơi vào Địa Ngục A-Tỳ khi hãy còn đang trên dương thế.
Nhưng cổ đã không làm một chuyện gì trái với luân thường đạo lý, vì cổ có sức mạnh nơi đức tin và lòng hướng Thiện vô bờ.
Thành ra, cổ rất ghét ai coi trọng hay thích thú chia sẻ những thứ liên quan tới tính dục, cổ nghĩ họ có tinh thần lành mạnh hơn mình thì tại sao lại không dành thời gian tham gia các hoạt động giải trí bổ ích ngoài đời...
Mỗi lần nhớ đến nữ thí chủ này, tôi thấy cổ rất đáng thương và cũng rất đáng khâm phục.
Stephen Đoàn có cảm tưởng như đã bấu được sợi dây để cứu Kiều Xuân:
- Cổ có đi điều trị ở đâu không?
- Không.
Hễ căn bịnh phát tác, cổ lại đi tắm nước đá.
Do đó mà phổi của cổ đã bị tổn thương nặng, cổ nói cổ thà chết vì lao phổi chứ nhất quyết không để căn bịnh này khiến cô làm chuyện trái với luân thường đạo lý.
Tuy thất vọng nhưng chàng Linh mục không để lộ ra mặt.
Chàng nương theo chủ đề mà vị Tăng sĩ ấy khơi gợi:
- Thầy nói làm tôi nhớ tới những người sử dụng bừa bãi nhóm chữ "Trầm cảm", "Đa nhân cách",...!Họ giễu cợt trên chính nỗi đau của người khác một cách hữu ý.
Và thể theo lời khuyên của Thầy, tôi sẽ ngưng việc khuyên họ đừng nên ăn nói như vậy.
- Bịnh của cô Kiều Xuân cũng may chưa có thêm triệu chứng như nữ thí chủ thường hay cúng dường và dâng y cho chúng tôi.
- Dạ.
Và tôi cũng đã hiểu tại sao Thầy lại đề cập đến chủ đề rất khó nói ở trên.
Đoạn Trần nở nụ cười hòa ái:
- Xin mời Cha giải thích.
- Người không mắc bịnh thì lại muốn rước bịnh, người không muốn mắc bịnh thì lại bị bịnh vận vô người.
Đoạn Trần chắp tay mà nói:
- Lành thay.
Cha đã hiểu ý của tôi rồi.
Stephen Đoàn chắp tay và cúi đầu cảm tạ.
- Những người không biết cổ bị mắc bịnh trên nên khi nghe cổ bài bác ấn phẩm và hoạt động liên quan tới tính dục thì liền lao vô miệt thị và chửi cổ đạo đức giả, đầu óc phong kiến.
Quá đáng hơn, còn kẻ còn đăng những bức ảnh khiêu gợi để móc mỉa cổ.
Cái miệng thì bô bô cấp tiến và tự do ngôn luận, nhưng hễ ai phát biểu không theo ý mình thì gán mác cho người ta đủ điều; đó là căn bịnh nan y của rất nhiều người Việt.
Stephen Đoàn rầu rầu bình phẩm:
- Chỉ có người bị bịnh mới biết căn bịnh đó kinh khủng ra sao.
Thành thử, họ lúc nào cũng muốn người khác không bị mắc bịnh giống mình nên hễ có dịp là ráng sức khuyên nhủ.
Nhưng lòng nhiệt thành và hảo tâm của họ lại bị dập tắt bằng những gáo axit đậm đặc.
- Nói người ta đạo đức giả không làm cho mình có đạo đức thật đâu.
Đây là một trong những từ bị lạm dụng quá đà ở thời đại này.
Thuở trước, đa phần chỉ xài trong văn chương, song xã hội lại đạo đức thật lại nhiều hơn đạo đức giả.
Còn bây giờ thì ngược lại...
Stephen Đoàn buông xuống một tiếng thở dài nặng trịch.
- "Sa ngã thì rất dễ, nhưng làm lại cuộc đời thì rất khó." Chính vì có đức tin nơi Phật Giáo mà cổ đã khống chế được căn bịnh quái ác còn hơn ung thư của mình.
Nhưng cũng bởi lẽ thế, không một ai thân thiết với cổ biết cổ bị bịnh này, nên chẳng ai kiêng dè mà cứ tự nhiên nói tới những chủ đề mà cổ không muốn nghe và phải tránh xa.
- Thầy làm tôi nhớ tới những người coi phim thiếu nhi mà cũng phải bình luận tục tĩu và khiếm nhã.
Và một người hành nghề bác sĩ đăng bình luận ngỏ ý mời mọi người đi hiến tạng cứu người sau khi mình hay thân nhân qua đời, lập tức bị chửi là "Phật online", "Lừa đảo à?" và "Mày về kêu cả lò mày đi hiến đi thằng..."
Đoạn Trần chắp tay mà niệm "Nam-Mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật".
Rồi ông mệt mỏi lên tiếng hỏi:
- Ngày mai tôi sẽ Tịnh Khẩu để sám hối tội Vọng Ngữ của mình, bây giờ Cha có còn khúc mắc nào muốn tôi đóng góp ý kiến nữa không?
Thấy chòm sao Bắc Đẩu đã đậu trên hướng Tây - Bắc, Stephen Đoàn không dám làm phiền Đại Trưởng Lão Đoạn Trần nên xin phép lui về phòng ngủ lấy sức để sáng mai còn viếng thăm các cơ sở Kitô Giáo trong vùng.
Nghe vậy, Đoạn Trần cũng xin phép cáo từ đặng về phòng thiền định.
...
Trước lúc lên xe ôm đi ngoạn cảnh, Stephen Đoàn hỏi:
- Tịnh Khẩu là gì vậy mấy Thầy?
Châu Lợi đáp:
- Điều gì đáng nói thì nên nói, chỉ vậy thôi.
Chạy được một đoạn, người tài-xế khuyên chàng Linh mục nên đi xuồng, đò, ghe hay sà-lan cho thuận tiện vì bốn bề minh mông nước.
Nhớ, cho chút tiền đổ dầu để đẹp lòng người cho quá giang.
Nhờ có anh bạn Linh mục Cà Màu mà Stephen Đoàn làm quen được một bác Giáo dân rất dễ thương.
Bác kể mình là giáo viên đã về hưu, hiện thời là giảng viên giáo lý cho Giáo xứ mà chàng Linh mục kia đang đảm trách kiêm "Ông lái đò" đưa khách qua sông.
Ai từng đời muốn dâng Lễ phải chèo vô nhà xứ.
Vừa vui vừa cực.
Mới hay đời Mục Tử thật lắm gian truân và thử thách.
- Sáng giờ ăn gì chưa Cha?
- Dạ, con chưa ăn gì chú.
Bác Giáo dân bèn chuyển hướng ghe vô khúc sông cái để tìm ghe hàng bán đồ ăn sáng.
Nắng Hè làm rực sáng con sông cái hiền hòa.
Vô số ghe, xuồng, đò, sà-lan và vỏ lãi tấp nập qua lại.
Tiếng chân vịt và máy nổ đã lấp mất âm thanh khua mái chèo.
Những vạt rừng cà-na rũ bóng soi mình dưới mặt sông chói lòa.
Trên bờ, những cái chợ cóc xôm tụ kẻ mua - người bán, lâu lâu lại có tiếng la làng hoặc đòi bắt đền vì bị quẹt xe hay ai đó ác đạn băng qua đường một cách bất cần đời.
"Từ bên này sông Tiền qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ, "Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả"
Tới Cà Mau, Rạch Giá đốt lửa cất chòi giữa rừng thiêng..."
Ca xong, bác Giáo dân giới thiệu:
- Đây là bài "Hương rừng Cà Mau" của nhạc sĩ Hà Phương.
- Nghe giống tên tập sách của nhà văn Sơn Nam.
Bác mỉm cười gật đầu.
Rồi nêu ý kiến:
- Theo thiển ý của ông thì có lẽ nhạc sĩ lấy cảm hứng sáng tác từ tập sách này.
Quẹo vô một con rạch biên biếc sắc tím bông mua, là đến một cái quán ăn dựng theo kiểu nhà sàn, chủ nhà ăn gian ra mé rạch hơn ba mét mấy.
Vừa lấy dây luộc cột vô cái cọc vạt từ cây bần để neo ghe lại, bác Giáo dân vừa la í ới:
- Có ai ở nhà hôn? Hổng trả lời là tui đi luôn à nha?
- Đi luôn đi.
Mới sáng sớm mà vác thây tới đây bẹo gan tui.
Stephen Đoàn liền hiểu ra sự tình.
- Cháu ông hả?
- Bậy.
Cha xứ trên thành đô xuống chơi.
- Cha ăn gì Cha?
Nãy giờ Stephen Đoàn chỉ nghe tiếng một người đàn bà coi bộ cũng trộng tuổi rồi nhưng chưa thấy hình hài ra sao, đâm ra bợ ngợ không biết đối đáp như thế nào cho phải.
- Bả đứng chải đầu ở trỏng đó.
Lát con trai bả ra bán.
Ngó thấy tấm bảng thực đơn sơn theo kiểu cổ gắn trên vách, Stephen Đoàn bèn chọn món bánh tằm cay của bổn xứ, còn ông Giáo dân kêu hủ tíu thịt - chả.
Một người đàn ông cao hơn mét bảy vác cái bụng bia ra làm món cho hai người Công Giáo.
Nước da của chú đó như màu bánh ít, tóc xoăn tít như Miên, vẻ mặt hiền queo và rất kiệm lời.
Ăn đâu được vài đũa, đang hít hà vì ban nãy lỡ bỏ thêm ớt bằm nhiều quá, thì Stephen Đoàn mới thấy bà thím ghệ ông Giáo dân chống nạng bước ra nói chuyện với hai người.
- Ông hay tin gì chưa? Có nhà nào bắt cá bằng thuốc nổ không may bị phỏng mặt kìa.
- Trời ơi, báo đài người ta nói rát cuống họng rồi mà không nghe.
Ham tiền chi dữ vậy.
May phước cho người bạn đồng tu của anh chỉ bị nám đen một bên mặt và không bị hoại tử da vùng đó.
Nhưng vẫn phải uống thuốc để chữa trị và ngăn ngừa nhiễm trùng máu.
Cũng nhờ khi ấy có Trần Cảnh Chiêu nên Y-Nhã mới bình an vô sự như vầy.
Không hiểu sao, Tê-Pha-Nô lại cảm thấy tiêng tiếc với lựa chọn trở thành pháp y của Mạc-Ty-Nho, bởi y học tinh thông của người trai xứ biển đó có thể cứu được mạng của rất nhiều bệnh nhân.
- Cha, sao Cha ngồi thừ ra vậy? - Bác Giáo dân nóng ruột hỏi.
Stephen Đoàn hồi thần.
Anh gượng gạo đáp nhỏ:
- Dạ, chuyện riêng tư thôi ông.
oOo
Vườn rau của Henrico Thạnh bữa nay có thêm mấy liếp rau và vồng đất.
Để có tiền chăm sóc và đi tập vật lý trị liệu cho người Thầy mà anh quý như cha, anh phải làm vườn gấp ba nên giờ đây thân hình còn mỏng hơn tờ giấy quyến.
- Nè, tụi bây ăn no rồi kiếm góc nào ngủ.
Đừng có ra ngoài đây phá vườn tao nghen?
Dặn thì dặn cho vui chứ Henrico Thạnh không biết mấy con chó đó có để tâm nghe không.
Trời vừa tang tảng sáng.
Hừng đông đã in bóng trên mảnh đất xanh ngắt màu rau cải và cây cỏ, nhưng vẫn chưa đủ nhiệt để xua tan bầu không khí se lạnh, ẩm ướt mà cơn mưa đêm qua để lại.
Một đàn cò trắng chao đôi cánh mà lượn bay theo chiều nâng của cơn gió cô liêu; gần đây có một cánh đồng lúa khá lớn nên ngày nào chàng Linh mục cũng thấy bóng dáng chúng.
Nơi gian bếp thơm mùi cà-phê phin, Hương Lan đang ca bài "Giấc ngủ đầu nôi" của nhạc sĩ Thanh Sơn:
"...!Khi em về quê xưa nhớ lại những chiều gió đưa
Trên bờ đê dắt nhau chạy đua
Bên kia con kinh, trưa trốn nhà lứa đôi tỏ tình
"Bìm bịp kêu nước lớn - nước ròng...", bài ca dao hát ru đầu lòng..."
Tiếng ngáp dài vang lên từ phía bộ ngựa báo hiệu cho Henrico Thạnh biết Cha Dương đã thức giấc.
Đơn thuốc mà bác sĩ ở bịnh viện thuộc trường Đại Học Y - Dược Sài Gòn đã làm cho ông ngủ say như chết, nhưng vì mới uống được một tuần nên chưa thấy bớt đau mấy.
Henrico Thạnh tất tả bước vô gian bếp để pha cà-phê.
Trước lúc bắt tay vào việc, anh rửa tay hai bận với xà-bông diệt khuẩn.
- Đọc Kinh sáng chưa bây?
- Dạ chưa.
Con đợi Thầy dậy rồi hai đứa mình đọc chung cho vui.
- Chớ hổng phải mày làm biếng hả?
- Thầy nghi oan con không hà!
Augustino Dương vỗ vai con trai mà cười ha hả, rồi che miệng mà biểu nó đi lên nhà trên đốt đèn cầy, trải chiếu sẵn và sửa soạn bàn thờ lại.
Hai cha con mặc áo Dòng, mang vớ trắng đàng hoàng, tóc tai chải chuốt gọn ghẽ mới quỳ xuống đọc Kinh sáng trước bàn thờ Chúa.
Giữa bốn bề quạnh quẽ, giọng đọc trầm ấm và sang sảng của hai người làm rộn vang quang cảnh nơi đây.
Bầy chó giữ nhà mà Henrico Thạnh nuôi đứng nghe đâu được một lúc rồi nguẩy đuôi ra ngoài sau hè chơi.
Đàn sẻ nâu đã đợi anh sẵn ở sân trước, chỉ chờ giờ Kinh kết thúc là chúng sẽ được anh thết đãi lúa ngon; có vài con không kiên nhẫn được nên vừa nhảy nhót loạn xạ vừa kêu lên rinh rích.
Khi tiếng "Amen" của hai thầy trò lắng xuống, đàn sẻ nâu bắt đầu làm ầm lên.
Có con bạo gan nhảy chân sáo vô nhà trên hối thúc Henrico Thạnh; con này tròn vo như cuộn len, sắc lông bóng mượt, cổ có vòng cườm duyên dáng và đôi cánh be bé, xinh xinh, không biết nó làm sao bay được với cái hình hài này?
- Được rồi...!Được rồi...!Mệt mấy đứa quá...
Trong lúc ngồi coi con trai rải lúa cho đàn sẻ nâu, Augustino Dương nghe Chế Linh - Hương Lan song ca bài "Hoa Vông Vang trắng" của nhạc sĩ Y Vũ:
"...!Mỗi lần hoàng hôn chiều tan Lễ xóm Đạo đường đã thưa
Gặp nhau đây sao không nói, hai người đã yêu thầm
Tình Yêu như nụ hoa trinh trắng trong vườn son
Đã từng đêm về nghe hồn thao thức như đời đã chớm mộng..."
- Lát con chở Thầy đi kiếm quán nào ăn sáng, để có cái lót lòng mà uống thuốc.
- Ở đây có ai khá giả không Thạnh?
- Đầy dẫy luôn Thầy.
- Chứ sao Thầy thấy nhà cửa coi tiêu đìu quá...
- Trời ơi, xứ con hổng có trọng nhà cửa, vô nhà đi mới biết nghèo hay giàu.
- Mày nói vậy tao nghe cũng mừng.
- Mà nè...
- Dạ?
- Làm riết mày ốm tong ốm teo luôn.
- Ôi, "Ốm nhom ốm nhách" hay "Ốm o gầy mòn" gì cũng được, miễn sao có tiền chánh đáng xài là được rồi.
Uống được đâu vài hớp cà-phê đen đá, Henrico Thạnh rủ Thầy ra sau hè coi vồng đất mà anh mới đắp bữa trước.
- Mày giặm cây gì?
- Khoai từ, khoai môn, khoai lang, khoai sọ, khoai mì, khoai tây...!Bên củ thì có củ dền, củ năng, củ ấu, củ đậu, củ gừng, củ nghệ, củ ngải bún,...
- Khoan! "Ngải bún"?
Henrico Thạnh tròn mắt nhìn Cha Dương:
- Dạ.
- Mốt tao nấu đãi bây món bún cá lóc.
Có củ ngải bún vô nước lèo mới thơm và sớ cá không bị tanh.
- Nấu với con lươn được hôn Thầy?
- Được chớ.
Ăn lươn còn mát dữ thần nữa là.
- Mốt tát đìa con rủ mấy Thầy với mấy ổng mò phụ.
Nhiều lắm.
Con Tư Lành hễ tới dịp là qua rinh dìa đủ thứ tôm, cá, cua, lươn.
Thím Ba năm nào mà hổng cho con một hũ mắm tép bự chà bá lửa.
Nhờ mưa dầm mát mẻ suốt mấy ngày nay nên những vồng đất và liếp rau mau chóng đâm chồi nảy lộc.
Cỏ dại cũng được dịp lớn lên theo.
Đôi tay của Henrico Thạnh nhổ cỏ riết muốn mất hết đường chỉ và dấu vân tay; ý là anh đã đeo găng tay bảo hộ khi làm việc.
- Thạnh.
- Dạ?
- Con nghĩ sao về việc biết một thầy tu làm "cỏ lùng" mà không dám tố giác vì sợ bị gán mác "Chia rẽ Giáo Hội"?
- Con sẽ đứng về phía người tố giác.
Thà bị người ta phao vu đục nước béo cò còn hơn là để cho Giáo Hội bị uế tạp.
Im lặng một hồi lâu, Henrico Thạnh cau mày nhìn Cha Dương hỏi:
- Mà, ai là người đã khiến Thầy đặt câu hỏi này vậy?
- Stephen Đoàn.
Nó tự dưng hỏi mấy Thầy câu này.
- À, Thầy có uống thuốc ảnh đưa không?
- Ngưng rồi.
Uống hai - ba cái dễ "Tẩu hỏa nhập ma" lắm con.
Tuy rất muốn hỏi Cha Dương rằng tại sao anh Mỹ lại lên Cô Tô hoài vậy, song Henrico Thạnh ráng dằn xuống để khỏi làm buồn lòng ông thầy sắp thất thập cổ lai hy.
Thay vào đó, anh hỏi:
- Con không hiểu tại sao Giáo xứ lại mang tên Thánh Pio?
- Cha Vinh-Sơn rất ngưỡng mộ cuộc đời Đức Cha Padre Pio, tức Thánh Pio Năm Dấu, nên có suy nghĩ rằng nếu Đức Cha được tuyên Thánh thì sẽ chọn tên của Đức Cha làm tên cho Giáo xứ.
Thành ra trước đây Giáo xứ chỉ có tên trên giấy tờ là Giáo xứ Cây Mai, nhưng mấy mươi năm sau thì đổi thành Saint Padre Pio theo sở nguyện của Cha Vinh-Sơn.
- Nhưng mà ai cũng quen miệng kêu trước là Giáo xứ St.
Pio hả Thầy?
- Ừ, chắc là để tránh bị "đụng hàng" với mấy Giáo xứ khác.
Rồi Cha Dương buồn hiu cảm thán:
- Mà cũng mắc cười một cái là cuộc đời của Cha Vinh-Sơn cũng truân chuyên về đường phụng vụ như Thánh Pio vậy.
Trông thấy một củ khoai lang nằm nép mình dưới phiến đã xanh, mặc kệ cái lưng bị gai cột sống, Augustino Dương khom xuống bẻ.
Rồi "Ui da" một tiếng thiệt lớn.
- Trời đất quỷ thần thiên địa ơi...!Đã cái lưng đau mà cứ làm bé Xuân Mai hoài.
- Kệ tao mày.
Henrico Thạnh càm ràm vài tiếng nữa mới chịu thôi.
Anh hỏi lảng sang chuyện khác:
- Thầy có biết trong này nói "Đông như..." cái gì không?
- Đông như kiến riện.
- Con không hiểu tại sao những cái chết và bị trọng thương của Linh mục xứ này mau chìm nghỉm quá.
Được đâu rùm beng một quý rồi nín thinh luôn.
Lâu lâu có người hê lên hà rầm hà rì được mấy bữa rồi im ru tiếp.
Augustino Dương chỉ biết thở dài thườn thượt.
Trong lúc người Linh mục già hãy còn đang bối rối, bỗng một con chó mực từ đâu phóng xuống mà kéo ống quần của Henrico Thạnh.
- Có khách hả Mực?
Mực gục gặc cái đầu đen tuyền.
Vừa theo chân con trai ra sân trước, Augustino Dương vừa tấm tắc khen:
- Mấy con chó bây nuôi khéo quá.
Con nào con nấy hiểu tiếng người luôn.
- Tụi nó là cảnh khuyển về hưu, không ai nuôi, nên con đem về nuôi hết.
- Tự nhiên tao nhớ đến một câu: "Thổ tử, Cẩu phanh", mặc dầu không liên quan gì tới bầy chó về hưu này.
Mấy con chó còn lại đang đứng gác hai chi trước lên những lỗ mắt cáo của tấm lưới B40 mà sủa váng trời.
Dù có gan hùm đi chăng nữa thì người khách này cũng không dám tự ý bước vô.
- Thưa Thầy, con là Martin - Matin Trần Cảnh Chiêu, nguyên quán Bạc Liêu, là Giáo dân của Giáo xứ Bá-Đa-Lộc.
Thể theo lời khuyên của gia chủ, pháp y Cảnh dựng xe ở nhà để xe đặng phòng trời đổ mưa bất thần.
Chiếc Air Blade của anh mà dầm mưa hơn một tiếng chắc chỉ còn có nước đem đi bán sắt vụn.
Chưa kịp xuống nhà sau pha trà đãi khách, Henrico Thạnh đã bị Martin Trần níu tay giữ lại.
Pháp y Cảnh mời hai vị Linh mục ngồi xuống nói chuyện trước cái đã rồi hẵng ăn uống sau cũng không trễ.
Và không để ai hở miệng, chàng trai xứ biển đã lên tiếng hỏi:
- Con muốn hỏi về nguyên nhân dẫn đến sự tử vong của Đức Giám Mục Vincent - Cao Nhật Trung.
- Không hiểu có chuyện gì mà bữa đó Cha Vinh-Sơn chạy ra hải cảng Ba Son vào lúc ba giờ sáng, khi trở về đem theo một bọc đồ...!biết cựa quậy.
Sáng ra thì bọc đồ ấy mất tiêu, hỏi Cha thì Cha nói có người bà con ở Đồng Nai nhân con nước thuận lợi nên hẹn Cha tới Ba Son lãnh gà về nấu cháo, thấy cặp gà bự quá nên Cha bèn cho một gia đình nghèo lại đông con trong Giáo xứ ăn.
- Thầy có kiểm chứng không?
- Có.
Gia đình Giáo dân đó không ngớt lời ngợi khen Cha Vinh-Sơn và nói cặp gà trống - mái ăn ngon hết sẩy.
- Vậy còn...!đứa con nít kia?
Augustino Dương thoáng giựt mình, nhưng ráng gượng cười mà trả lời:
- Thằng nhỏ mạnh cùi cụi hà.
Ít vô nhà thương lắm.
Hễ bú no là ngủ, thức thì ngồi chơi im ru chứ không quậy quạng gì.
- Tại sao Cha Matthias Hoàn lại không nuôi nó mà để mặc nó tự sinh tự diệt?
Augustino Dương sa sầm nét mặt:
- Đó là quyết định của Thầy ấy, tôi không muốn...
- Ở đây, con không đề cập tới chuyện đạo đức hay tín lý đức tin, con chỉ muốn hỏi lý do nào đã khiến Cha Hoàn phải bỏ mặc đứa nhỏ?
Henrico Thạnh xen vô trả lời:
- Vì Cha Hoàn còn phải nuôi một đứa con riêng, nếu như lãnh cậu này về nuôi thì rất có thể tánh mạng của dì ấy sẽ bị gặp nguy hiểm.
Pháp y Cảnh quắc mắt nhìn người Linh mục trẻ:
- Tại sao Cha Thạnh lại biết đứa nhỏ là nam?
Henrico Thạnh cũng đanh mặt lại mà lạnh giọng đáp:
- Tui nghe Thầy tui kể.
- Thầy nào?
- Đang ngồi chần dần một đống trước mặt anh đó.
Trần Cảnh Chiêu mời hai cha con qua Mỹ Tho ăn hủ tíu sa-tế.
Thay vì qua cầu, họ sẽ đi bằng phà: Không chỉ ngắm được quang cảnh Tiền Giang, mà còn bởi tuyến đường này hết sức an toàn và khách bộ hành không bị mất tiền vé.
Đến bắc Mỹ Tho, họ sẽ kêu taxi Uber tới rước.
Chiếc xe gắn máy của Martin Cảnh và Henrico Thạnh gởi ở bãi giữ xe trong chợ Tân Thạch, đương nhiên là phải mất tiền nhưng bù lại hai cái xe và ba cái nón bảo hộ còn nguyên-xi.
Gởi xe xong, Henrico Thạnh cười hỏi:
- Ăn gì hôn hai người?
Augustino Dương lắc đầu:
- No bụng rồi sao ăn ở bển nổi?
- Một phần có chút nị hà!
Vì đi từ Bạc Liêu lên Kiến Hòa từ hồi khuya nên giờ Martin Trần cũng cảm thấy hơi đoi đói, vậy là chàng pháp y xứ nhãn da bò bèn rủ Cha Dương đi ăn sáng.
Vốn không rành khu chợ nơi Cầu Bắc nên ba người Công Giáo chọn đại một xề bún riêu nằm ở mé hông trái của khu chợ.
"Quán" này mé trái nhìn thẳng ra cổng phụ, còn mé tay mặt có thể nhìn thẳng xuống cuối chợ nếu đường đi không bị xe cộ, khách bộ hành hoặc sạp hàng áng lối; cạnh bên có sạp bán bông cúng tỏa hương thơm phức, ngồi ăn mà tự nhiên nhớ Tết ghê!
Ngó vô tô bún riêu lớn hơn cái chén ăn cơm một xíu, Martin Cảnh cười hỏi:
- Bún riêu có bỏ đậu phộng rang nữa?
Henrico Thạnh nhếch miệng cười hỏi lại:
- Lạ lắm hen?
- Ờ.
- Lòng bò luộc bữa hổm ăn ngon lắm.
Luộc sao vừa ngọt vừa giòn vừa không tanh.
- Lòng bò phải luộc với nước dừa mới ngon đó Thầy.
Augustino Dương run giọng hỏi:
- Tao hỏi thiệt chứ xứ mày có món gì mà nấu không có trái dừa ở trỏng không?
- Có.
Món chiên, còn lại phần đông đều bỏ trái dừa vô.
Martin Trần hỏi:
- Bộ không chiên với dầu dừa sao?
Henrico Thạnh phá lên cười, rồi lắc đầu nguầy nguậy mà giải thích:
- Không, dầu dừa không để được lâu nên chiên lên hôi thấy bà cố nội luôn, ai nuốt cho trôi.
Trước đây thường chiên với mỡ heo, sau này thạnh hành dầu thực vật với cũng làm biếng thắng mỡ và thắng dừa làm dầu nữa nên người ta không còn chuộng hai loại trên.
Augustino Dương và Martin Trần chỉ biết cười trừ.
- Bởi, hổng phải làm phách, chớ dân xứ con thấy cây kẹo dừa là chạy xa tám giác.
Quanh năm suốt tháng ăn dừa gần như thay cơm nên mấy cái thứ đồ ngọt làm từ cây dừa dòm đã thấy ớn lên tới tận cổ thì làm sao nuốt cho trôi nổi.
Trước lúc lên phà, ba người ghé mua cà-phê ở một quán cũng mở trong khu chợ này; không chỉ để uống giải khát, mà còn khử mùi tanh đặc trưng của món mắm có trong bún riêu.
Men theo dòng người và xe cộ đông như mắc cửi, nguyên đám đã lên được chiếc phà còn nhiều tuổi hơn mình.
Để nhìn rõ cảnh sắc sông Tiền hơn, ba người quyết định ra mỏ phà đứng.
Henrico Thạnh cảm thán nói:
- Nếu muốn giúp đời sống bà con quanh đây khá hơn, hãy giữ lại bến phà này.
Nhờ có cái bắc này mà biết bao nhiêu người đã lay lắt sống tới ngày hôm nay, thậm chí có gia đình còn sắm được miếng đất - cất được cái nhà lành lặn.
Martin Cảnh góp lời:
- Phải, nó còn giúp phát triển ngành Du Lịch nữa.
Chắc chắn du khách sẽ rất thích linh đinh trên những chiếc phà có tuổi đời gần một Thế kỷ.
Henrico Thạnh tâm tình trong hai hàng nước mắt:
- Chưa bao giờ những chiếc phà này phụ rẫy khách của nó.
Chuyến nào chuyến nấy đều hết sức êm thắm, không một lần nào bị trục trặc giữa dòng.
Chỉ có con người là "có trăng quên đèn" mà thôi...
Bất giác, người trai xã Phước Thạnh ấy đưa mắt nhìn về cây cầu Rạch Miễu hẹp té như mành chỉ vắt qua dòng sông Tiền, lệ vẫn nhòa trên gương mặt chàng.
Có những niềm riêng không sao giãi bày được...
"Từ ngày xa đất Tiền Giang
Em theo anh về xứ cảnh đờn
Muỗi kêu mà như sáo thổi
Đĩa lềnh tựa bánh canh
Em yêu anh nên đành xa xứ
Xuôi ghe chèo miệt thứ Cà Mau..."
Tiếng hát chân phương của Hương Lan trong bài "Em về miệt thứ" của nhạc sĩ Mỹ Tho - Hà Phương vọng ra từ một chiếc xe vận tải cỡ nhỏ càng làm tâm sự của Phước Thạnh thêm nặng trĩu.
- Những người buôn gánh - bán bưng nhờ có cái bến phà này mà đã vượt sông qua Mỹ Tho an toàn...!Sức đâu mà cuốc bộ trên cầu nổi? - Henrico Thạnh vừa nói vừa nhìn vô chiếc xe bán chổi lông gà đủ màu sắc sặc sỡ.
Vài đứa trẻ bán vé số tụm lại nơi mỏ phà mà tỉ tê cho nhau nghe những chuyện mình thâu nhặt được trên đường mưu sinh.
Đứa nào đứa nấy đen nhẻm, tóc hôi mùi nắng cháy, mặt mày sạm nám hết, nhưng trên môi chúng không khi nào ngớt nụ cười.
Chúng làm gì có "Tuổi thần tiên" hay "Tuổi ngọc"?
- Mấy đứa...!
- Dạ?
Pháp y Cảnh vừa nói vừa mở bóp lấy tiền:
- Bán cho anh tờ vé số.
Đứa con gái thắt bính cười khoe hàm răng sún mà hỏi:
- Chú mua đứa nào chú?
- Mỗi đứa mười tờ.
Lựa giùm đi, chứ chú hổng có để tâm vô số "siết".
Augustino Dương thương cảm hỏi:
- Mấy đứa ăn gì chưa?
Đứa con trai mặc cái áo tơi tả và lem luốc hơn "Trần Minh khố chuối" có sao nói vậy:
- Dạ rồi.
Ăn ổ bánh mì không rồi ông.
Biết Thầy nghèo "kinh niên" nên Henrico Thạnh lấy tiền của mình mà phát cho mỗi đứa vài chục ăn cơm trưa.
Đứa nào đứa nấy mừng rơn cảm ơn anh rối rít.
Xuống Bắc Mỹ Tho, trong lúc đợi chiếc xe Uber đã đặt tới rước, ba người đứng chờ dưới bóng mát của gốc cây thầu dầu ở đầu lộ.
Augustino Dương nói với giọng rầu rầu:
- Tụi nhỏ cần có người lo hơn là cần tiền.
- Con tính khi nào Giáo xứ được thành lập sẽ mở một ký nhi viện và các lớp khuyến học.
Trần Cảnh Chiêu xuýt xoa:
- Cha! Bộn tiền nghen?
Lệ Thu đang ca bài "Mùa Thu lá bay"; nhạc sĩ Kỳ Phát đặt lời Việt từ nhạc phim Đài Loan "Thiên ngôn vạn ngữ".
Quán cà-phê ấy được thiết kế theo kiểu nhà Hội Đồng của xứ Nam Kỳ xưa, bên trong trưng bày rất nhiều đồ xưa và giả cổ, hầu để tạo bầu không khí xa xuôi và hoài niệm cho khách hàng.
Những chiếc xe gắn máy được xếp thành hàng ngay ngắn trên vỉa hè lát gạch mới coóng.
Augustino Dương tặc lưỡi:
- Hình như Stephen Đoàn đi chuyến xe đò của cái hãng xe bên bển.
Hai anh em Hùng - Dũng chi đó.
Pháp y Cảnh đưa mắt ngó theo hướng ngón trỏ của vị Linh mục già.
"Tin..."
Chiếc xe hơi hiệu Ford - Taurus trắng tuyết bóp kèn báo hiệu cho ba người hay rằng chủ nhân của nó đã tới.
- Cậu Chiêu lên đằng trước ngồi nghen?
- Dạ.
Vừa mới cài xong dây đai an toàn, người tài-xế trung niên kể:
- Quý vị có hay tin gì chưa? Tổng thống Khánh sắp ghé đây để tham dự một buổi triển lãm nói về ca - cổ nhạc.
Pháp y Cảnh giỡn:
- Ổng ca cải lương cũng lâu mà chưa chịu xuống há?
- Ui...!Dễ dầu gì chịu xuống.
Xuất thân thấp hèn như vậy, giờ một bước lên mây, mấy ai muốn quay về chỗ cũ.
Augustino Dương góp lời:
- Mà nghĩ cũng tài, lèo lái sao mà mấy cái Đảng họp lại hè nhau đuổi xuống mà quất không nổi.
- Hình như thằng chả nắm thóp từng khứa một hết rồi.
Mới hê lên chống đối là chả quăng bài ra diệt liền...
Chiếc xe bất thần thắng gấp để không ủi cái bà đi xe đạp thình lình băng qua lộ.
Báo hại Cha Dương lại đau lưng nữa.
- Chắc kiếp trước chả là "Thủ lĩnh thẻ bài".
Nói đoạn, người tài-xế cho xe chạy tiếp.
- Chừng nào "Dân giàu, Nước mạnh" thì chả mới xuống, chắc tới khi chả còn cái cốt khô chả mới từ chức thôi.
Trần Cảnh Chiêu nhân đó hỏi:
- Mà, rốt cuộc Lê Hoài Sang họ Lê hay họ Trịnh vậy?
- Gốc là họ Trịnh, sau cải thành họ Lê.
- Bắc Kỳ phải không?
- Ừ.
Ổng vô Nam từ vụ "Nhân Văn Giai Phẩm".
- Còn chi lạ nữa hôn anh? Cái máu nhiều chuyện của tôi nó nổi lên rồi.
Người tài-xế cười khẩy:
- Từ từ, đừng có nôn...!Để tôi kể "Truyện xưa tích cũ" của khứa Hoài Sang cho nghe.
Nhờ có người tài-xế Cái Bè mà chàng pháp y xứ nhãn da bò biết thêm rất nhiều tin tức liên quan đến Trịnh Hoài Sang.
Điều đầu tiên là dung mạo thời trẻ của ông ta rất tuấn mỹ và giọng nói thì đặc sệt Hà Nội - sau nhiều năm ở thành đô thì đã chuyển hẳn sang tiếng Nam Kỳ; trước đây làm việc tại một nhà in có tiếng gần Sở Thú, nhờ một cơ duyên mà đổi vận sang làm chánh khách cho đảng Dân Chủ, chẳng mấy chốc mà trở thành một thương gia giàu có và uy quyền trong xã hội.
Nghe đâu sau khi ổng chết con rơi con rớt bỗng đổ về như thác lũ, song người nào cũng là "ruột thừa" hết.
Augustino Dương bỗng nhớ tới đứa con "Chiên lạc" mang tên Ernest - Nguyễn Chí Công, rốt cuộc cha đẻ của nó là ai?
oOo
Sau lần chết hụt ở dưới Cà Mau, Ignacio Cường trở về Giáo xứ với một vết sẹo lớn nơi má trái.
Sẵn tánh lầm lì, anh lại càng khó gần hơn trước.
Louis Quế thập thò ngoài cửa buồng nãy giờ mà không dám bước vô.
- Vô đại đi.
Tôi không có ăn thịt Chiên đâu.
Nghe như vậy, Louis Quế mới dạn chân bước vô với một nụ cười mơn trên môi.
- Vợ tôi biểu tôi đem chè dưỡng nhan qua cho Cha ăn nè.
Ignacio Cường bật cười.
Vẫn trong tư thế nằm vắt tay qua trán suy tư, anh nói:
- Làm gì mà như sắp sửa tiến tôi vô cung vậy?
Thấy ông Chánh xứ không ngồi dậy chi sất, Louis Quế bèn lại gần và đỡ chàng ta ngồi dậy:
- Nè, ra ăn chè đi, nằm hoài sao mà khỏe được.
Không muốn làm buồn lòng Thầy Phó Tế, Ignacio Cường miễn cưỡng ra ngoài phòng khách ăn chè.
Trong lúc đợi Cha Sở đi đánh răng - rửa mặt và sửa soạn lại trang phục, Louis Quế xuống nhà sau pha trà; hộp trà Móc Câu này là do cháu trai của cố Phêrô Toàn mua nhân một dịp đi công tác ở miền ngoài.
Gian bếp của tu xá bày biện khá sơ sài và hơi...!bầy hầy, vì thiếu bàn tay chăm sóc của phái nữ; lâu lâu các Sơ có xẹt qua dọn dẹp giùm, ngăn nắp được đâu vài bữa rồi cũng trở về đơn vị cũ hết.
Từ trong nhà tắm vọng ra tiếng của Ignacio Cường:
- Chắc mốt tôi sẽ đổi tên Thánh: Từ Thánh Y-Nhã sang Thánh Y-Tế.
Louis Quế bật cười khúc khích, đoạn gục gặc đầu biểu:
- Ừ, không biết Cha bị cái chi mà gần nửa năm nay toàn bị thương trên mặt.
- Đã mặt mày không đẹp mà còn bị thẹo đủ đường.
- Cha mà "xí trai", chắc không còn ai đẹp nữa...
- Đẹp chỗ nào?
- Bớt ngầu xíu là đẹp hà.
Ăn đâu được vài muỗng chè ngọt quá sức chịu đựng của mình, Ignacio Cường nhận được cuộc gọi từ một gia đình Giáo dân sống gần cổng Bắc của Giáo xứ.
- Có chuyện chi mà Cha giống như Songoku chuẩn bị biến hình vậy?
Ignacio Cường không nói không rằng mà chạy một hơi ra cổng Bắc.
Đi được nửa chừng, người Cha Sở gần tứ tuần gặp con trai trưởng của cố Phêrô Toàn; anh ta hối thúc Ignacio Cường lên chiếc xe bán tải của mình để kịp ra đó giải quyết sự vụ.
Một đội cảnh sát đặc nhiệm đã đứng dàn hàng ngang tự bao giờ.
Ba chiếc xe công vụ cũng đã đậu sẵn dưới gốc cây trứng cá, chừng như đang đợi bắt ai đó trong xứ.
Dưới sự ngáng đường của những trai tráng trong xóm Đạo, không một ai trong tốp cảnh sát có thể lọt vô nơi đây được.
Con trai Út của cố Phêrô Toàn đứng ra làm người đàm phán giữa hai bên.
Hai đứa con trai của anh Ba của Cha Vinh-Sơn cũng lên tiếng giảng hòa.
- Có chuyện gì đó? Sao lại kéo đến đây vậy hả?
Đội trưởng của đội cảnh sát lên tiếng:
- Cha có phải là Cha Chánh xứ ở đây không?
- Phải.
Xin hỏi trát tòa nào đã thổi các vị đến đây vậy?
- À...!Tôi không có giữ trát tòa.
Thanh tra giữ nó đang trên đường tới đây...
- Vậy thì chừng nào người đó có mặt thì các vị mới được vô trong xứ.
Cảm phiền các vị hãy tiếp tục đứng chờ ngoài đó đi.
Nhưng đội cảnh sát không có ý định nhượng bộ.
Nhân lúc cổng Bắc hãy còn chưa đóng, họ xấn xổ bước vô luôn.
Ignacio Cường phừng phừng lửa giận.
Anh xông tới chắn trước mặt viên đội trưởng mà gầm lên với đôi mắt long lên sòng sọc:
- Đâu? Trát tòa đâu? Ai giữ? Bước ra đây nói chuyện với tôi lẹ lên...!Mau!!!
Một viên cảnh sát rụt cổ cảm thán:
- Trời, Cha mà tưởng "Bố Cái Đại Vương".
Chuông nhà thờ đã đổ.
Ba cánh cổng đã được đóng chặt, chỉ còn mỗi cổng Bắc mở toang mà thôi.
Những người trai tráng trong Giáo xứ đã thủ sẵn gậy gộc và giàn ná.
Viên đội trưởng nhếch miệng cười gằn:
- Hèn gì mà ai cũng biểu chốn này là "Ấp chiến lược" và "Khu tự trị".
Ignacio Cường trừng mắt quát:
- Muốn bước chân vô đây, hãy trình trác tòa ra cho tôi coi! Còn nếu không có trác tòa mà vẫn muốn vô đây, trước hết hãy bước qua xác của tôi!
"Vút."
Một viên đạn sắt bay ra từ giàn ná của một trong số những trai tráng của xóm Đạo là làm bể tấm khiên chắn của người đội trưởng.
Những mảnh vỡ nằm ngổn ngang dưới chân anh ta.
- Ở đâu ra "Tiểu Lý Quảng" Hoa Vinh vậy? - Một người cảnh sát run giọng hỏi.
Ignacio Cường ngoảnh đầu lại mà ra lịnh:
- Buông ná xuống hết!
- Dạ Cha!!!
Viên cảnh sát trưởng giận điếng người:
- Các người dám chống người thi hành công vụ hả?
Người trai vừa giương ná ra bắn la làng lên:
- Chúng tôi không chống, chúng tôi chỉ cảnh cáo và tự vệ thôi!
Cố Phêrô Toàn xuống nước năn nỉ:
- Có chuyện chi mà các vị phải thân chinh tới đây vậy?
- Chúng tôi nghi ngờ Giáo xứ đang chứa chấp tử tù bỏ trốn...
Ignacio Cường đã hiểu lý do nào mà họ phải phái cả đống nhân viên đến đây nên cơn Tam Bành càng lên cao tột độ:
- Đừng có xài chữ "Chứa chấp", nếu không đúng Sự Thật thì coi chừng chúng tôi sẽ thưa anh ra tòa tới cùng vì tội vu khống và gây mất trật tự trị an!
Lời vừa mới dứt, những tràng hò reo ủng hộ đến từ bầy Chiên trong xứ vang lên ầm ĩ như sóng thần ập vào bờ.
Cố Phêrô Toàn và Thầy Phó Tế chắp tay năn nỉ bà con đừng bị kích động thái quá, rồi a thần phù mỗi người một góc mà nắm áo kéo ông Cha Chánh xứ dữ hơn cọp bị giẫm trúng đuôi lui về sau mấy bước.
Hai bên giằng co tới hơn hai mươi phút.
Tưởng chừng như sắp sửa xảy ra hỗn chiến thì đột nhiên khựng lại vì sự xuất hiện của một cô gái có má lúm đồng tiền rất dễ thương.
- Con mẹ "miền viễn Tây" nào nữa đây? - Một người trai tráng bực bội hỏi.
Một cô gái áng chừng ba mươi tuổi mặc đồ vest cách tân kiểu nữ bước tới gần Ignacio Cường mà nở nụ cười cầu hòa.
- Thanh tra đó hả? Có trát tòa không?
Châu Vỹ Tiên vừa nói vừa trao trát tòa cho ông Cha Sở bảnh bao như tài tử Hồng Kông:
- Dạ có.
Ignacio Cường xẵng giọng khoát tay mời:
- Cứ tự nhiên khám xét.
- Đội ơn Cha.
Rõ ràng người kia chỉ mới phạm tội "Cố sát", nhưng đã bị định án là "Giết người".
Kẻ chủ mưu đứng đằng sau chắc chắn không phải là kẻ bị đâm, mà là một ai đó cầm đầu đường dây buôn bán nội tạng...
- Cha.
- Sao?
- Đi với con nghen Cha?
- Đừng có xưng "Con" với tôi.
Thanh tra đây không phải là con Chiên trong Giáo xứ của tôi.
- Có ai khen anh đẹp trai chưa ông Cha trẻ?
- Thì sao?
- Người gì đâu