Chẳng cần phải nói, độc giả cũng biết Quang Ngọc, Lê Báo và Trịnh Trực trốn
vào trong hầm ấy.
Vì hấp tấp quá, không ai nghĩ đến mang theo lương thực, nên suốt một ngày
không có gì vào bụng, ba người đói meo nằm ngủ một giấc dài.
MỞ mắt ra không thấy Lê Báo đâu, Quang Ngọc lo lắng bổ đi tìm. CÓ lẽ lúc
đó đã sang giờ Tuất, vì trong sân yên lặng tiếng dế kêu ran, và xa xa tiếng chó sủa
đêm . . .
Đến chổ cửa vào chùa, Quang Ngọc thấy Lê Báo đang đứng áp tai vào tường
nghe ngóng.
Chàng quay ra thầm bảo Quang Ngọc:
- Không ra được, chúng nó còn thức. Đương tụ họp nhau đánh bạc Ở ngay
chùa trên.
Quang Ngọc cũng lắng tai nghe, thì rõ ràng có tiếng tiền trinh đụng thành đ a
bát.
- Hay ngu để ra phía cửa tha ma vào làng mua các thức ăn mang về đây.
- Đước, để khuya hơn tí nữa, chúng ta cùng đi. Phải cẩn thận, quanh chùa đều
có lính canh giữ cả đấy.
Lê Báo chau mày tở vẻ căm tức, nắm tay giơ về phía trong chùa, đe dọa bọn
lính, mồm làu nhàu mấy câu nguyền rửa.
Khai hai người quay về chỗ cũ, thấy Trịnh Trực đương ngồi bó gối, khóc rưng
rức Lê Báo chau mày lặng thinh đứng ngắm, và Quang Ngọc mỉm một nụ cười
chua chát hỏi mỉm:
- Công tử còn khóc được ư?
Rồi chàng phàn nàn như nói một mình:
- Bây giờ ta cànt thấy lỗi ta quá nặng. Ta tưởng giao phó công việc, khi ta đi
vắng nhà, cho một viên tướng có đủ trí dũng, ai ngờ ta chỉ đem việc lớn đưa trẻ.
Một bậc thượng tướng, trong khi hành sự, có thể sa vào chỗ lầm lỡ bị thất bại, rồi
ngồi khóc thì chỉ là một đứa trẻ con. . . phải một đứa trẻ con.
Quang Ngọc nhắc lại hai, ba lần câu "một đứa trẻ con". Trông chàng vẫn bình
tĩnh, nhưng khi chàng đã có giọng mỉa mai như thế, là chàng tức giận lắm đấy.
Lúc bấy giờ, vô phúc có kẻ nào gặp chàng, không may cho một đảng viên nào cãi
lý với chàng: chàng sẽ trở nên một con sư tử dữ tợn hay một con rắn đầy nọc độc,
tàn nhẫn, ác nghiệt.
Ý chừng Lê Báo biết vậy nên chỉ đứng im thin thít, không dám chêm một câu.
Và
Trịnh Trực sợ hãi thôi khóc, quỳ xuống đất, rút thanh kiếm đeo bên sườn, ha tt
nâng lên dâng đảng trưởng, rồi vươn cổ ra mà nói rằng:
- Kính lạy đại huynh, - ngu đệ không dám dùng những chử đảng trưởng đảng
viên nữa - ngu đệ chỉ còn có cái chết để báo đến ơn sâu.
Quang Ngọc đỡ lấy thanh kiếm, ném mạnh lên giường, rồi cười nhạt, đi đi lại
lại, vừa nói dằn từng tiếng:
- Chết? Hừ? Chết? Ngày xưa đời Trần, Trần Bình Trọng chết vì nước. ĐÓ là
một cái chết. Trần Bình Trọng thua trận Đà Mặc bị Thoát Hoan bắt được. bị bắt thì
tìm chách tháo thân để đánh nữa, đánh mãi cho đến khi được, hay chết. Mà không
có cách gì tháo thân thì chết ngay. Đời làm tướng chỉ có ba kết quả: được trận,
thua trận, chết trận. Nào có gì lạ lùng mà nói những câu to tát: "Tao thà làm quỷ
nước Nam, chứ không theom làm vương đất Bắc." RÕ cũng lôi thôi? Cái chết đó,
tôi liệt vào hạng chết rất thường của ông tướng biết tự trọng, cái chết của kẻ thua
không chịu khuất phục kẻ được mình. Nhưng cái chết mà Trịnh công tử xin tôi
ban cho có giống cái chết ấy không?
"Hơn một trăm năm sau, Bình Định Vương, tức đấng Thái tổ nhà Lê khởi
nghĩa Ở Lam Sơn để đánh đuổi quân Minh đương chiếm đất nước ta. Một lần, vua
bị khốn Ở Chí Linh, khó lòng phá vòng vây mà trốn thoát được. Bấy giờ có ông Lê
Lai theo gương Kỷ Tín chịu chết thay vua Hán Cao, liều thân vì nước, xin nhà vua
cởi áo ngự bào ra cho mình mặc, rồi cưỡi ngựa ra trận đánh nhau với quân giặc.
Quân Minh tưởng đó là Bình Định vương thật, xúm nhau vây đánh giết đi, rồi yên
tâm rằng trừ xong vương, rút cả quân về Tây Đô. ĐÓ là một cái chết anh hùng,
mãnh liệt, có xuy xét, có lui tới, không có ý nghĩa kiêu sức, khoa trương, tự phụ,
vì nó là cái chết không có không xong. V~ đãi thay những hành vi kín đáo, nhún
nhường, xả kỷ, dù hành vi ấy là sự bại trận, sự thắng trận, hay chỉ là cái chết.
Nhưng cái chết mà Trịnh công tử xin tôi ban cho có giống cái chết của Kỷ Tín, của
Lê Lai không?"
Quang Ngọc ngừng lại cười, cười to đến nỗi Trịnh Trực phải sợ hãi, lo rằng
người Ở trên mặt đất có thể nghe rõ. Trịnh Trực buồn rầu lóp ngóp đứng dậy. Thì
Quang Ngọc lại nói luôn:
- Hay Trịnh công tử muốn theo gương Hưng Đạo đại vương: à? Công tử
muốn chết như đức Trần Quốc Tuấn. Trời ơi? To tát thay cái chết vì nước, vì vua?
Vua Nhân Tôn nhà Trần nghe tin Hưng Đạo Vương bại trận chạy về Vạn Kiếp,
liền ngự truyền xuống Hải Đông, rồi vời vương đến bàn rằng: "Thế giặc to, mà
mình chống với nó thì dân bị tàn hại, hay là trẫm chịu ra hàng để cứu muôn dân?"
Hưng Đạo quỳ xuống rút kiếm dâng vua Nhân Tôn rồi vươn cổ ra mà nói rằng:
"Bệ hạ nói câu ấy thật nhân đức, nhưng còn đất nước thì sao? Nếu bệ hạ muốn
hàng, xin trước hết chém đầu tôi đã, rồi hãy hàng."
Quang Ngọc cười gằn:
- Cử chỉ của Trịnh công tử đối với đảng trưởng thực giống cử chỉ của Hưng
Đạo Vương đối với đức Nhân Tôn, chỉ khác một chút là người xưa dùng cái chết
để khuyến khích can gián vua, còn Trịnh công tử thì dùng nói vì nhu nhược, vì
nhút nhát, vì sợ chết. Cái chết hèn nhát đến đâu? Cái chết ấy khác gì tự tử?
Nghĩ một lát, Quang Ngọc lại nói:
- Ư, thì tôi nhận công tử chết đấy. Nhưng trước khi chết, công tử hãy thi thố
một việc phi thường gì đã nào? Chẳng hạn bây giờ công tử thử nghĩ cách cứu đảng
xem. Làm thế nào cho đảng không những không bị tan nát, mà còn đương suy háo
thịnh được?
Quang Ngọc ngưng bặt vì nghe có tiếng chân chạy nện thình thịch Ở sau lưng.
Quay lại, thấy Lê Báo mặt nhợt nhạt, hai mắt tròn xoe nhớn nhác. Quang Ngọc
hỏi:
- Cái gì thế?
Trịnh Trực run lập cập, nói không ra hơi:
- HỌ phá đường hầm?
Lê Báo cố định thần, thuật lại việc vừa xảy ra. Chàng đến lối cửa tha ma nghe
ngóng để chờ tin lẻn ra ngoài, đi tìm kiếm thức ăn...
Nguyên cửa ấy Quang Ngọc xây ẩn vào trong một cái mộ giả, dùng để đảng
viên trốn thoát ra ngoài chùa khi nào bị vây (cái cửa tháp của Phổ T nh chỉ đưa từ
hầm ra đến vường chùa mà thôi.)
Lê Báo vừa nâng cái nắp mộ lên ghé mắt nhìn ra thì nghe thấy mấy người lính
canh Ở gần đấy chạy tán loạn và kêu la inh ỏi: "Ma? Ma hiện hồn?".
Quang Ngọc đứng ngẫm nghĩ tìm hiểu.
Bỗng một người đầu trùm cái mấn vải trắng dài chấm gót chân tiến đến gần,
Trịnh Trực chạy lại giường với thanh kiếm. Lê Báo rút dao đứng chặn trước mặt
đảng trưởng. Ai nấy yên lặng.
Quang Ngọc đăm đăm ngắm nghía, phì cười, giang tay cản hai người lại:
- Ta không tin có ma. Mà nếu ma biết đường vào hầm thì cũng là ma quen,
can chi phải sợ.
rồi chàng trợn mắt nhìn thẳng vào người lạ mặt và ôn tồn hỏi:
- Ngươi là ai? Vào đây làm gì?
Người mới đến, vẫn giữ vải che kín mặt, yên lặng đật xuống giường một gói
lớn, rồi thong thả mở ra: Trong có đến năm sáu nắm cơm cùng là giò chả, gà luộc,
muối vừng. Ba người vẫn kinh ngạc đứng nhìn. Nhưng Lê Báo bụng đương đói
như cào ngửi thấy mùi chả rán và mùi muối vừng rang thơm phúc, liền thì thầm
bảo hai bạn:
- Thì ta cứ ăn đã. ăn xong hãy hay.
Trịnh Trực vội gạt:
- Chết, không nên hấp tấp thế ? Nhỡ quân thù bỏ thuốc độc vào món ăn đem
xuống hầm để hại bọn mình.
Một tiếng cười Ở trong mấn đưa ra đáp lại câu ngờ vực.
Quang Ngọc vẫn chăm chú ngắm nhìn người vừa tới. Chàng tiến lên một
bước, người ấy lùi một bước, chàng lùi thì người ấy lại tiến lên. ánh sáp lờ mờ
lung lay chiếu loang loáng vào cái mấn dài, mầu trắng càng làm tăng vẻ bí mật của
người lạ lùng kia.
Hai người yên lặng đứng nhìn nhau: Bỗng một tiếng cười thé. Rồi cái mấn
trắng tung ra. Quang Ngọc và Lê Báo vui mừng cùng kêu:
- Nhị nương ?
Nhị nương ung dung rút con dao lớn đeo Ở sườn ra thái giò, chả và nói:
- Xin mời ba hiền hữu chiếu cố.
Quang Ngọc không giấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười nhìn Nhị
nương. Từ ngày hai người hộ giá Hoàng phi lên Lạng đến nay đã hơn hai tháng,
ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức, nhất là tin Nhị nương. Khi Ở gần
nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi
hổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của
chàng. Nhị nương lại là một viên tướng rất có giá trị, giúp chàng được nhiều việc
trong những lúc khó khăn nên sự lầm lỡ của Trịnh Trực và Lê Báo lại làm cho
chàng hiểu rõ rằng thiếu Nhị nương thực như