Kiến Xuyên hầu băn khoăn sốt ruột đã một tháng ròng. Nhưng hôm ấy hầu
càng băn khoăn sốt ruột hơn, đến nỗi hầu lo rằng đã xảy ra tai nạn cho vợ chồng
và con gái đi chơi vãn cảnh chùa. âu đó cũng là sự liên lạc của lulung tâm hồn
cùng một huyết thống, hay nói theo cổ nhân, có tâm linh báo cho ta biết mọi sự
can hệ đến những người thân yêu Ở nơi xa vắng.
Hầu lấy bộ Đường thi ra đọc cho quên nỗi buồn vơ vẩn, nhưng không sao bình
tĩnh mà hiểu được cái hay của những bài thơ cổ.
Đọc được vài trang, hầu lại xếp sách vào ngăn tủ, đứng dậy ra vườn cảnh
ngắm hoa.
Sau dẫy lan can xây theo hình chữ thọ triện, những bông hoa phù dung kép và
đơn về chiều đã ngả màu thắm lại, từ màu hồng phớt cho đến màu đỏ xẩm. Trong
lòng phiền muộn, hầu nhìn màu hoa như có nhuốm máu đào. Dưới dàn thiên lý lá
xanh già rủ qua những mắt cáo của phên nứa, mấy hàng chậu sứ men lam và hàng
thống Bát Tràng màu đen, đặt trên những bộ đôn cùng một kiểu. Trong chậu, trông
thống trồng các thứ cây uốn thành hình con giống: nào cây dành dành, uốn kiểu
"lão bạng sinh câư , cây đơn kiểu "phượng hoàng vu phi", nào cây nẻ, kiểu "hạc
qui quá hải", cây sanh kiểu "hạc lập kê quần". Những cây cảnh ấy cùng hòn núi
giả bày trong cái bể cạn lớn đều do chính tay hầu đã sửa nắn và xếp nên. Vì thế,
nên ngày hai buổi, sáng chiều, hầu ra ngắm nghía không bao giờ chán mắt, mỗi lúc
lại tìm ra cái đẹp thanh thú, mới mẻ của nó. Nhưng hôm nay hầu chẳng buồn ngắm
tới vật gì hết, đi trong vườn cảnh mà trí để cả Ở đâu đâu.
Sang đầu giờ Dậu có tin báo thuyền phu nhân và tiểu thư đã về. Rồi lại tiếp
luôn có tên người nhà về bẩm với hầu rằng thuyền phu nhân cùng hai chiếc thuyền
nữa đã đậu Ở bến. Hầu giật mình kinh hoảng hỏi dồn:
- Với hai chiếc thuyền nữa? Trên thuyền ấy có những ai?
Chỉ một lát sau, tiến khóc đã ầm ĩ từ cổng đưa vào. Rồi Long CƠ vận đại tang
đến trước mặt hầu xụp xuống lạy và nức nở:
- Trình cụ lớn, quan lớn con thất lộc rồi.
Kiến Xuyên hầu mặt tái dần, phải vịn vào cột dàn hoa cho khỏi ngã. Nhưng
trấn tĩnh ngay được và ôn tồn hỏi Long Cơ:
- Chồng con... thất lộc?
- Dạ.
Hầu thở dài, tháo mục kính ra lau:
- Thảo nào một tháng nay thấy sốt ruột quá.
Rồi hầu vào buồng đóng cửa cài then, lên giường ngủ để không ai biết rằng
mình khóc con và khỏi trông thấy gia quyến kêu gào than vãn.
Sáng hôm sau hầu vừa thức giấc, tiếng kinh kệ đã lọt vào tai. Hầu bước ra nhà
ngoài: Trước cái linh cữu phủ vải trắng, một nhà sư trẻ tuổi, ngồi gõ mõ tụng
niệm, Hầu hỏi người nhà:
- Sư ông nghe giọng thanh nhã, chắc không phải người Ở vùng này.
Người nhà đáp:
- Bẩm cụ lớn, sư ông theo linh cữu trấn thủ từ Lạng Sơn về hôm qua.
Kiến Xuyên hầu ngồi xuống tràng kỷ nghe nhà sư tụng niệm.
ít lâu nay hầu rất chăm xem kinh phật và hiểu thấu triết lý cao siêu của một
đạo giáo đã an ủi lòng chán nản của nhà chí sĩ sống vào giữa lúc giao thời.
Hầu thường đi ngao du, tìm đến thăm những nơi danh lam thắng cảnh, rồi Ở
đó, nếu gặp những nhà sư chân tu, cùng họ đàm đạo về ý nghĩa kinh phật.
Một lẽ nữa khiến hầu yêu Phật giáo: Hầu muốn ngấm ngầm, lặng lẽ phản đối
nhà Tây Sơn. Từ ngày vua Nguyễn Huệ xuống sắc chỉ bắt phá hết các chùa nhỏ Ở
các làng, chỉ để lại mỗi hạt một vài ngôi có tiếng, thì hầuBỗng thấy hầu càng yêu
đạo Phật lắm, yêu một đạo giáo hình như đã bị nhà Tây Sơn ruồn ghét.
Phạm Thái cúng Phật xong đứng dậy chắp tay chào Kiến xsuyên, vì chàng đã
biết hầu đợi từ nãy. Kiến Xuyên đáp lễ, rồi mời chàng ngồi.
Nghe một lão quan hỏi đến việc tu hành, đến các kinh bản một cách chu đáo
rành mạch, Phạm Thái lấy làm lo sợ, vì bấy lâu ẩn nấp dưới bóng từ bi, chàng đã
kịp có thì giờ khảo cứu đến sách phật đâu. Chẵng qua, chàng chỉ học thuộc mấy
câu kinh kệ nhì nhằng để ê a che mắt thế gian, cùng là sửa sang cái điệu bộ hiền
lành kính cẩn để ra vẻ một nhà chân tu mà thôi.
Đời chàng là đời hoạt động của một tráng sĩ, mà tu đối với chàng chỉ có nghĩa
là tập luyện tính tình cho khẳng khái, chí khí cho cứng cáp, gân cốt cho mạnh mẽ.
Nát bàn của chàng là trả được thù cho cha, cho vua, cho các bạn đồng chí bị giết.
CÓ một lúc nào tâm trí chàng được thư thái mà xem tới sự tích Phật tổ, mà tìm
hiểu cái nghĩa vu khoát của những chữ: "hư vô, tĩnh tọa".
Nay gặp Kiến Xuyên hầu mà chàng đóan chắc là một người hiểu tinh tường
đạo Phật, nếu chàng không tìm cách giấu cái dốt của mình đi, e chẳng khỏi bị hầu
khinh bỉ. Điều ấy chàng không muốn có, từ khi vụi nẩy một ý tưởng rất kỳ dị trong
tâm trí chàng.
Chàng liền xoay câu truyện từ chỗ đạo giáo ra chỗ văn thơ. Chàng đã được
Thanh Xuyên cho hay tính tình và tư tưởng của cha. Chàng biết rằng Kiến Xuyên
rất chuộng Đường thi và thích thú ngắm hoa vịnh nguyệt. Chàng liền hỏi:
- Bẩm cụ lớn, bần tăng thường được quan trấn